Một số phương pháp thanh toán bằng thẻ



Một trong những yếu tố quan trọng nhất khi chấp nhận thanh toán bằng thẻ trong giao dịch kinh doanh đó là bạn cần phải có niềm tin hay nói cách khác đó là “chữ tín”.


Với tư cách là người mua hàng, bạn có thể hoàn toàn yên tâm vào ngân hàng phát hành thẻ thay bạn thanh toán cho người bán, người bán cũng tín nhiệm ngân hàng trả tiền cho họ và hơn thế nữa ngân hàng tin bạn sẽ hoàn trả số tiền mà ngân hàng ứng trước cho bạn để trả cho người bán.Trong nền kinh tế thị trường do nhu cầu thanh toán khác nhau, khách hàng khi mua hàng có thể trả bằng tiền mặt, bằng thẻ tín dụng, thẻ mua hàng hay thẻ ghi nợ....
Để thoả mãn nhu cầu của mỗi người tất yếu trên thị trường thế giới phát sinh các loại thẻ khác nhau. Nhưng những thẻ này được thanh toán bằng cách nào? Các phần dưới đây của bản tin này sẽ lần lượt làm sáng tỏ câu hỏi này.

Thẻ ghi nợ: Thẻ ghi nợ cũng giống như thẻ tín dụng, chỉ khác là chúng trực tiếp chuyển tiền tới các tài khoản séc của người dùng. Hiện nay, hầu hết các thẻ ghi nợ đều có biểu tượng của Visa hay MasterCard.
Điều đó có nghĩa là bạn có thể xử lý các giao dịch thẻ ghi nợ hệt như là xử lý các giao dịch thẻ tín dụng, nhưng do tiền được chuyển tới trực tiếp từ tài khoản séc hoặc tài khoản tiết kiệm của người sử dụng, nên chiết khấu sẽ thấp hơn. Gần đây séc điện tử được sử dụng thay thế thẻ ghi nợ khi kinh doanh trên mạng bởi vì khi sử dụng thẻ ghi nợ, bạn phải đưa thẻ vào máy đọc thẻ và yêu cầu khách hàng của bạn nhập số PIN.

Thẻ mua hàng: Thay vì trả bằng tiền mặt, bạn có thể đưa thẻ mua hàng cho người bán và họ sẽ lập cho bạn một hoá đơn mua hàng. Nhiệm vụ của bạn là đưa hoá đơn đó đến ngân hàng cấp thẻ này và ngân hàng sẽ thanh toán cho bạn dựa trên hạn mức của thẻ.
Điểm thuận lợi của loại thẻ này đó là ngân hàng có thể tạm ứng trước một số tiền nhất định cho bạn để bạn mua hàng trong trường hợp thẻ của bạn đã quá hạn mức chi tiêu. Nhưng sau một kỳ hạn thanh toán (thông thường khoảng một năm), ngân hàng sẽ thông báo về số tiền bạn phải trả.

Thẻ tín dụng: Thẻ tín dụng được sử dụng đầu tiên trong các nhà hàng và khách sạn, sau đó là các cửa hàng bách hóa. Có cả một ngành công nghiệp khổng lồ để xử lý các giao dịch thẻ tín dụng trực tuyến, với các công ty như First Data, Total System và National Data... đang chi tiết hóa các giao dịch phía sau mối quan hệ giữa ngân hàng, người bán hàng và người sử dụng thẻ tín dụng.
Hàng triệu cửa hàng bách hóa trên toàn nước Mỹ đã được trang bị các trạm cuối mà thông qua đó thẻ tín dụng được kiểm tra, số thẻ được nhập và biên lai được in ra. Người sử dụng ký vào biên lai để xác nhận chứng minh thư và việc mua hàng của mình.CyberCash Secure Internet Credit Card Service là một phần của CashRegister được giới thiệu lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1995.
Nó cho phép khách hàng bằng một thẻ tín dụng có thể mua hàng hoặc dịch vụ từ các doanh nghiệp trên mạng đã cài đặt CyberCash CashRegister. Để hoàn tất phần mềm này doanh nghiệp phải tải xuống một bộ công cụ kết nối từ website của CyberCash. Việc cài đặt phần mềm này yêu cầu một số kiến thức về Perl và HTML, các chi tiết sẽ được chỉ rõ khi tải chương trình xuống từ website.
Sau khi CashRegister được cài đặt, các doanh nghiệp cần lập một tài khoản tại một ngân hàng nào đó chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng qua CyberCash.Dưới đây là cách mà một hệ thống xử lý thẻ tín dụng điển hình thực hiện:

Khách hàng đưa thẻ tín dụng cho người bán.
Người bán hoặc đôi lúc là khách hàng, đưa thẻ vào một máy đọc thẻ.
Thông tin trên dải băng từ của thẻ được truyền đến một hãng xử lý thẻ tín dụng để xác minh.
Thông tin trên thẻ được đối sánh với một bộ quy tắc được định nghĩa trước bởi nhà phát hành thẻ cho khách hàng (ví dụ như Visa) như hạn mức tín dụng và ngày hết hạn.
Một khi quá trình xác minh được chấp nhận, hệ thống sẽ gửi ngược lại cho người bán một mã chứng thực
Người bán sử dụng mã chứng thực này trên phiếu thanh toán.
Vào năm 1958, Ngân hàng nước Mỹ đã cho ra đời loại thẻ tín dụng được sử dụng đầu tiên trên thị trường có tên là BankAmericard và thẻ MasterCharge. Nhưng sau đó BankAmericard đổi tên thành thẻ Visa còn thẻ MasterCharge đổi tên thành MasterCard.Hiệp hội thẻ tín dụng không phát hành thẻ tín dụng mà nó nhờ vào các ngân hàng thành viên để cung cấp các dịch vụ mua hàng thông qua merchant account nhằm giúp các nhà kinh doanh có thể chấp nhận thanh toán bằng các thẻ này.Hiện nay có trên 600 triệu người có thẻ tín dụng đều có thể sử dụng tại hơn 14 triệu điểm trên thế giới. American Express vừa có thêm một loại thẻ tín dụng gọi là “thẻ Optima”.
Do hiệp hội thẻ tín dụng không phát hành thẻ nên khách hàng khi dùng thẻ tín dụng phải lấy thẻ tại một ngân hàng phát hành thẻ nhưng không phải ở ngân hàng mà người bán của họ có merchant account ở đó. Sự phối hợp giữa ngân hàng phát hành thẻ cho người mua và ngân hàng cung cấp merchant account cho người bán phải do một bên thứ ba đứng ra thực hiện chứ không phải là công ty phát hành thẻ.
Tóm lại, có nhiều hình thức thanh toán trong Thương mại điện tử như chuyển tiền qua mạng, thông qua các máy giao dịch tự động (ATM – Automated Teller Machines) với các loại thẻ khác nhau.
Nhưng trong bản tin này chúng tôi chỉ tập trung giới thiệu cho bạn đọc ba loại thẻ, đó là thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ và thẻ mua hàng, đặc biệt là thẻ tín dụng bởi vì thẻ tín dụng được xem như là phương pháp thanh toán thịnh hành nhất khi giao dịch trực tuyến. Hy vọng bài viết này phần nào giúp bạn đọc hiểu được phương pháp thanh toán bằng thẻ.




Hoàng Anh

Các vấn đề thanh toán trong thương mại điện tử


Hãy cho tôi xem tiền của anh. Ðây là điều thực sự cần thiết cuối cùng có phải không? Bạn có thể chỉ là một cửa hàng sở hữu một người, vận hành WEB site của mình trong một gara ôtô hoặc một quán cà phê nào đó hay là một tập toàn nhiều tỷ đô la đầu tư hàng triệu đô la vào hệ thống thương mại điện tử. Bạn có thể có một hệ thống phức tạp có khả năng tạo các trang WEB động cho người truy nhập và tích hợp nền với các hệ thống cơ sở dữ liệu cỡ lớn hoặc chỉ đơn thuần là một bản danh danh sách hàng hoá đơn giản trên trang WEB nằm trên máy chủ của một ai đó trên mạng.



Bỏ qua mọi yếu tố về cấu hình hệ thống, điểm quan trọng cuối cùng của một hệ thống Thương mại điện tử là có một cách nào đó để người mua kích vào phím mua hàng và chấp nhận thanh toán.



Trong thế giới thực, có ba cách thanh toán: Bạn có thể trả tiền mặt, thanh toán bằng séc và sử dụng thẻ tín dụng. Các cơ chế tương tự cũng được sử dụng cho kinh doanh trực tuyến. Bạn có thể nhận số thẻ tín dụng giải mã nó do được mã hoá lúc truyền đi và xử lý đơn đặt hàng bằng tay. Bạn cũng có thể nhận số thẻ tín dụng và xử lý điện tử. Bạn có thể nhận một số thẻ ghi nợ và xử lý nó như một thẻ tín dụng dù người mua có thể coi nó như là một tấm séc. Và cuối cùng bạn có thể nhận tiền mặt. Chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng hình thức thanh toán trên và bắt đầu bằng hình thức dễ nhất để thực hiện thanh toán trực tuyến là thẻ tín dụng.



1. Thẻ tín dụng



Thẻ tín dụng đã được xử lý điện tử hàng thập kỷ nay. Chúng được sử dụng đầu tiên trong các nhà hàng và khách sạn sau đó là các cửa hàng bách hoá và cách sử dụng nó đã được giới thiệu trên các chương trình quảng cáo trên truyền hình từ 20 năm nay. Cả một ngành công nghiệp lớn đang tồn tại trong lĩnh vực xử lý các giao dịch thẻ tín dụng trực tuyến với các công ty như First Data Corp., Total System Corp., và National Data Corp., chi tiết hoá các giao dịch phía sau mối quan hệ giữa nhà băng, người bán hàng và người sử dụng thẻ tín dụng. Hàng triệu các cửa hàng bách hoá trên toàn nước Mỹ được trang bị các trạm đầu cuối (Hewlett-Package Verifone là nhà sản xuất hàng đầu của thiết bị này) thông qua đó thể tín dụng được kiểm tra, nhập số thẻ và biên lai được in ra. Người sử dụng ký vào biên lai này để xác thực việc mua hàng.

Trước khi nhận số thẻ tín dụng của người mua qua Internet bạn cần có một chứng nhận người bán. Nếu bạn đã hoạt động kinh doanh thì đơn giản là yêu cầu nhà băng của bạn cung cấp chứng nhận này. Nếu bạn chưa có bất cứ cái gì thì bạn có thể thực hiện việc này nhanh chóng tại một nhà băng nào đó hoặc truy nhập vào một WEB site có các mẫu đăng ký trực tuyến.

Sử dụng thẻ tín dụng trực tuyến ngày hôm nay, tuy nhiên, giống như việc sử dụng chúng với một "operating standing by". Số thẻ và chi tiết của giao dịch được lưu lại và xử lý, nhưng không có sự xuất hiện của người mua và khi có một vụ thanh toán bị lỡ thì nó vẫn được lưu lại trên hệ thống. Bởi lý do này các chi phí xử lý thẻ tín dụng trực tuyến nhiều ngang bằng với chi phí để xử lý một giao dịch chứ không ngang bằng với một mức phí như điện thoại và thông thường là vào khoảng 50 xen. (Các giao dịch được xử lý thông qua các trạm đầu cuối đã được hợp đồng chỉ mất khoảng từ 3 đến 5 xen).



Ngoài các khoản trên, phí được giảm nhờ việc sử dụng các dịch vụ của Visa và MasterCard, là các tổ hợp của các nhà băng, hoặc American Express Co. và Discover là các công ty riêng rẽ xử lý và quản lý các giao dịch thẻ tín dụng. Ðiều đó có nghĩa là bạn sẽ phải trả từ 2 đến 3 xen cho một đô la khi sử dụng Visa hay MasterCard, và ít hơn một chút với Discover, đối với American Express phí này vào khoảng 5 xen cho một đô la. Các thoả ước giữa các công ty cung cấp thẻ và các chủ doanh nghiệp giúp cho khách hàng không phải trả các chi phí này. Việc chiết khấu cũng khác giữa người sử dụng tại trạm đầu cuối nơi mà thẻ tín dụng tồn tại một cách vật lý, và môi trường WEB nơi mà thẻ không hiện diện. Trong quá trình chuyển đổi để chiết khấu người bán được đảm bảo thanh toán. Người mua được đảm bảo về việc sẽ nhận được hàng hoá và một số đảm bảo có giới hạn khác chống lại việc bị lừa hoặc mất thẻ. (Bảo hiểm thẻ được bán bởi các nhà băng phát hành thẻ và các rủi ro sẽ được thanh toán).



Cửa hàng trên WEB của bạn cần phần mềm nào để có thể xử lý thẻ tín dụng? ở mức đơn giản nhất, bạn phải có sẵn một số biểu mẫu có khả năng mã hoá bảo mật, thông thường là Sercure Socket Layer (SSL), một tiêu chuẩn đối với cả các trình duyệt của Microsoft và Netscape, và điều đó cũng có nghĩa là máy chủ của bạn phải có một khoá mã hoá. Tiếp theo bạn phải có một chương trình đóng vai trò là một giỏ mua hàng, cho phép người sử dụng thu thập các mặt hàng cần mua, tính giá và thuế sau đó đưa ra một hoá đơn cuối cùng để phê chuẩn. Cuối cùng nếu như bạn không muốn xử lý các tệp giao dịch bằng tay hoặc xử lý một gói các tệp thì bạn phải cần một cơ chế giao dịch điện tử.



2. Ðịnh danh hay ID số hoá (Digital identificator)



Các khoá mã bảo mật trên máy chủ, được biết đến như là các ID số hoá, được cung cấp bởi một số các cơ quan chứng nhận thẩm quyền, là nơi cấp phép và bảo dưỡng các bản ghi diễn biến trên các ID số hoá này. Tổ chức chứng thực thẩm quyền lớn nhất được điều hành bởi VeriSign Inc., một công ty được thành lập vào năm 1995 chuyên về lĩnh vực quản lý các chứng nhận số hoá. Công ty xử lý các yêu cầu ID số hoá cho các công ty như American Online, Microsoft, Netscape, tuy nhiên bạn cũng có thể trực tiếp có các ID số hoá trên WEB site của công ty. Vào mùa hè năm 1998, VeriSign thu phí 349 USD cho máy chủ ID đầu tiên mà một công ty mua và 249 USD cho thêm mỗi máy chủ ID tiếp theo. Một Máy chủ ID toàn cục - Global Server ID, 128 bit có mức chi phí 695 USD.

Công nghệ nền tảng cho các ID số hoá của VeriSign là SSL được xây dựng đầu tiên bởi RSA Technologies inc., nay là một đơn vị của Sercurity Dynamics. Mỗi thông điệp, được mã hoá bằng hai mã hoặc khoá là một chuỗi các bit làm thay đổi giá trị đã được số hoá các của dữ liệu được đưa vào hay lấy ra khỏi chương trình. Một khoá công cộng được dùng để mã hoá các thông điệp, trong khi khoá riêng thứ hai được dùng để giải mã nó. Tính thống nhất và xác thực của các khoá riêng được đảm bảo bởi một cơ quan chứng nhận thẩm quyền như VeriSign. Một máy chủ ID số hoá cho phép bạn ký vào các văn bản điện tử và chứng thực chữ ký của mình với một cơ quan chứng nhận thẩm quyền.



3. Xe mua hàng điện tử



MercantecỊs SoftCart Version 3.0 là một chương trình có chức năng của một giỏ mua hàng điện tử trực tuyến hiện đang sẵn có trên thị trường. Sau khi một phần mềm như trên được cài đặt trên máy chủ WEB thì bạn chỉ cần đặt một kết nối HTML trên trang WEB mô tả sản phẩm đến vị trí của chương trình này với các biểu mẫu để người mua có thể điền các thông tin về sản phẩm, thay đổi số lượng và chủng loại mặt hàng rồi hoàn thành giao dịch đó và chuyển đến một cơ chế xử lý giao dịch để thực hiện hoàn tất một quá trình mua hàng. Nếu như kho hàng của bạn nằm trong một cơ sỡ dữ liệu thì bàn cần có thêm các kỹ năng cần thiết để viết các hàm gọi đến cơ sở dữ liệu này dưới dạng .dll đối với môi trường Windows hay so đối với môt trường Unix. Nói chung các phần mềm dạng này sẽ cung cấp một số tính năng căn bản sau đây:

· Liên kết các yêu cầu bán hàng đến một biểu mẫu đặt hàng mà khách hàng có thể truy nhập qua WEB.

· Hoàn thành biểu mẫu đặt hàng sau khi đã lựa chọn hàng hoá và số lượng, rồi cập nhật thêm các thông tin về thẻ tín dụng.

· Xử lý các biểu mẫu đặt hàng, thông thường là chuyển đổi các dữ liệu ở đó thành dạng một tệp để xử lý theo gói (sẽ cần thêm một chương trình riêng rẽ nếu như có nhu cầu xử lý các giao dịch một cách trực tuyến).

· Gửi thư biên lai hoàn chỉnh đến khách hàng qua thư điện tử và kiểm tra xác thực việc mua bán.

· Hỗ trợ khả năng mềm dẻo trong xử lý đơn đặt hàng sao cho hàng hoá có thể được giao nhanh nhất, việc xử lý có thể được thực hiện bởi bộ phận bán hàng hoặc bất kỳ một người nào đó được uỷ quyền.

· Một số chương trinh còn cung cấp thêm các tính năng bổ trợ sau:

· Có sẵn một cơ chế tìm kiếm cho các sản phẩm trong cơ sở dữ liệu.

· Hỗ trợ các đối tượng HTML động sao cho giá cả có thể thay đổi nhanh chóng phụ thuộc vào số lượng đặt hàng.

· Hỗ trợ các biểu mẫu thu thập thông tin bổ trợ như thông tin tìm hiểu về khách hàng, danh sách địa chỉ e-mail của các khách hàng được xắp xếp theo nhóm quan tâm đến một sản phẩm hoặc một dịch vụ mới nào đó.

· Hỗ trợ EDI cho việc xử lý các đơn đặt hàng điện tử trong môi trường doanh nghiệp-tới-doanh nghiệp (B2B).

Các công việc này được xử lý trong một môi trường an toàn bảo mật (SSL). Phần mềm giỏ mua hàng điện tử được liên kết với một khoá mã bảo mật SSL sao cho tất cả các dữ liệu được truyền giữa máy chủ của bạn và trình duyệt WEB của khách hàng (giả sử là trình duyệt này hỗ trợ bảo mật SSL) được mã hoá bảo mật khỏi những tay rình trộm trên mạng.



4. Các bộ sử lý giao dịch



ICVerify, được sát nhập với CyberCash vào tháng 5 năm 1998, là một trong các doanh nghiệp trong làn sóng mới của thương mại trên Internet. Bộ xử lý giao dịch của nó, là một sản phẩm phần mềm thực hiện tất cả các công việc của một trạm đầu cuối của các cửa hàng bách hoá trong thế giới thực trừ một việc là nó được đặt trên một WEB site. ICVerify có thể chạy trên nền Windows NT và nhiều phiên bản Unix khác nhau hoặc cũng có thể là một thành phần ghép thêm vào các hệ cơ sở dữ liệu Oracle. Sẽ cần thêm một vài kiến thực về ngôn ngữ kịch bản Perl để thực hiện phần mềm này, tuy nhiên nếu bạn đã giao việc tích hợp hệ thống cho một đối tác nào đó thì sẽ không phải lo ngại gì về vấn đề này.

Phần mềm ICVerify thực hiện các công việc mà một trạm tính tiền đầu cuối thực hiện. Nó nhận số thẻ tín dụng của người dùng, số nhận dạng của người bán, các dữ liệu giao dịch (ngày, thời gian, số lượng), tạo lại thành các khuôn dạng chuẩn để xử lý, tao lời gọi đến các hàm có liên quan và hoàn thành các giao dịch. Nó cũng lưu lại các thông tin về thanh toán và mã xác thực, là dãy số được in trên phiếu nhận dạng thanh toán mỗi giao dịch được hoàn thành bởi bộ xử lý (phần mềm cũng có thể xử lý theo gói, có nghĩa là nó thu nhận tất cả các số liệu rồi xử lý vào ban đêm). Các số liệu giao dịch sau đó có thể được chạy trực tiếp thông qua một phần mềm giỏ mua hàng điện tử để xử lý đơn đặt hàng và tính toán các số liệu kế toán.



Phần mềm đóng gói ICVerify có thể được thiết lập để quản lý nhiều cửa hàng khác nhau, là nó còn có thể xử lý các giao dịch tuần hoàn như là với các khoản vay hoặc trả trước định kỳ. Khối xử lý các giao dịch thông thường chỉ chiếm khoảng 3.5 kilobyte bộ nhớ. Phần mềm này cũng bao gồm một số phần cho phép xử lý trong các ngành công nghiệp đặc biệt hoặc xử lý giao dịch của các công ty lớn với các khoản giảm giá theo định mức khác nhau.

Rủi ro nhiều nhất trong việc xử lý thẻ tín dụng bằng điện thoại hoặc thông qua WEB là người sử dụng có thể sử dụng một thẻ tín dụng hoặc số thẻ tín dụng ăn cắp của người khác. ICVerify là một trong số các sản phẩm có thể phần nào chống lại được các trường hợp này bằng việc kiểm tra tính đồng nhất của địa chỉ người mua hàng với địa chỉ được lưu trữ trên máy tính chứa cơ sở dữ liệu về địa chỉ của thẻ tín dụng.



4.1. Cyber Cash



CyberCash được biết đến như một công ty nối tiếng trong lĩnh vực xử lý các giao dịch cho Thương mại điện tử. Có trụ sở ở Reston, Virginia, CyberCash cung cấp một hệ thống gọi là CashRegister cho phép các cửa hàng trên WEB có thể cung cấp các phương thức thanh toán sau cho khách hàng:

· Thanh toán bằng thẻ tín dụng bao gồm các loại thẻ như Visa, MasterCard, American Express, Discover.

· CyberCoin cho phép người dùng mua các sản phẩm có giá từ 25 xen đến 10 USD.

· Séc điện tử và khả năng xử lý séc qua Internet.

CashRegister có thể tích hợp với một Website sẵn có và hoạt động trên nền Windows NT hay Unix. Người bán có thể cài đặt phần mềm bằng cách tải xuống miễn phí từ WEB site của CyberCash là www.cybercash.com hoặc có thể kết hợp với các công ty điều hành siêu thị trên Internet, các ISP đã có thoả thuận sử dụng CashRegister. Trong khi phần mềm CashRegister là miễn phí thì những người bán hàng thường bù cho CyberCash khoảng vài xen cho một giao dịch.

CashRegister là một phần mềm thực hiện các chức năng về phía người bán hàng. Ðể sử dụng hệ thống, khách hàng hoặc có thể chỉ sử dụng một trình duyệt WEB mà không cần phải thêm bất kỳ phần mềm hỗ trợ nào để điền vào các biểu mẫu mua hàng trên Internet hoặc họ có thể tải xuống một phần mềm miễn phí của CyberCash gọi là CyberCash Wallet, phần mềm này cho phép họ thiết lập một tài khoản với các thông tin trên thẻ tín dụng của mình, CyberCoins và séc điện tử. CyberCash chào hàng một vài hệ thống thanh toán khác nhau sẽ được xem xét chi tiết dưới đây:



a. Thanh toán bằng thẻ tín dụng



CyberCash Secure Internet Credit Card Service là một phần của CashRegister được giới thiệu lần đầu tiên vào tháng 5 năm 1995. Nó cho phép khách hàng với thẻ tín dụng có thể mua hàng hoặc dịch vụ từ các cửa hàng trên mạng đã cài đặt CyberCash CashRegister. Ðể hoàn tất phần mềm này người bán hàng phải tải xuống một bộ công cụ phần mềm từ WEB site của CyberCash. Việc cài đặt phần mềm yêu cầu một số kiến thức về Perl và HTML, các chi tiết sẽ được chỉ rõ khi tải xuống chương trình từ WEB site.

Qúa trình cài đặt sẽ tích hợp WEB site của bạn với một phần mềm máy chủ CyberCash để xử lý thanh toán.

Sau khi CashRegister được cài đặt người bán hàng phải đăng ký một tài khoản tại một nhà băng nào đó chấp nhận thanh toán thông qua việc xử lý thẻ tín dụng của CyberCash. Hiện tai các nhà băng sau ở Bắc Mỹ hỗ trợ CyberCash:

· CheckFree Corp.

· First Data Corp.

· Global Payment Systems.

· NOVA Information Systems.

· Vital Processing Servers.

CyberCash lặp lại các công việc xử lý thẻ tín dụng trong thế giới thực qua Internet. Dưới đây là cách mà môt hệ thống xử lý thẻ tín dụng điển hình thực hiện:



1.Khách hàng đưa thẻ tín dụng cho ngưòi bán.



2.Người bán hoặc đôi lúc khách hàng, đưa thẻ vào một máy đọc thẻ.



3.Thông tin trên dải băng từ của thẻ được truyền đến một bộ xử lý thẻ tín dụng để xác thực.



4.Thông tín trên thẻ được so sánh với một tập hợp các nguyên tắc đã được định nghĩa trước bởi người phát hành thẻ cho khách hàng (ví dụ như Visa) như hạn mức tín dụng và ngày hết hạn.



5.Sau khi qúa trình xác minh được chấp nhận, hệ thống sẽ gửi lại cho người bán một mã xác thực.



6.Người bán sử dụng mã xác thực này trên phiếu thanh toán.



CyberCash tự động hoá quá trình xử lý này thông qua phần mềm của họ và mối quan hệ với các nhà băng khác và các mạng xác thực thẻ tín dụng. Sau khi khách hàng trên WEB nhập số thẻ tín dụng vào phần mềm CashRegister, thông qua CyberCash Wallet hoặc chỉ đơn giản là nhập nó vào một biểu mẫu trên trang WEB thì CashRegister sẽ định dạng giao dịch vào và chuyển nó qua Internet tới các trung tâm xử lý xác thực. Sau khi quá trình xác thực được chấp nhận thì nó sẽ được gửi lại CashRegister để đảm bảo chấp nhận quá trình mua bán này cho khách hàng. Toàn bộ quá trình này mất khoảng 15 giây. CashRegister chạy trên rất nhiều môi trường khác nhau bao gồm Solaris, SUNOS, SGI, HP-UX, BSDI, Windows, Linux và Macintosh.



b. Internet Wallet



Trong khi khách hàng mua hàng tại các cửa hàng cài đặt CyberCash không phải cần thêm bất cứ phần mềm nào ngoài trình duyệt WEB thông qua việc nhập các thông tin của thẻ tín dụng vào một biểu mẫu có sẵn trên trang WEB thì họ cũng có thể tự thiết lập "một chiếc ví điện tử" cho phép mình có thể có nhiều lựa chọn thanh toán khác nhau. CyberCassh Internet Wallet có thể được cài đặt trên máy của khách hàng và cung cấp các phương thức thanh toán cũng giống như của CashRegister:

· Thanh toán bằng thẻ tín dụng.

· Thanh toán bằng CyberCoin.

· Thanh toán bằng séc điện tử.

Ðể có chương trình Internet Wallet, khách hàng có thể tải xuống miễn phí từ WEB site của CyberCash là www.cybercash.com . Rất nhiều các cửa hàng trên WEB sử dụng các phần mềm của CyberCash cũng cho phép khách hàng tải xuống phần mềm này từ chính WEB site của họ và CyberCash sẽ giúp đỡ người dùng cách cài đặt chương trình này.

Trong quá trình cài đặt chương trình, người sử dụng thiết lập một Wallet ID, là một cách để người bán hàng có thể nhận dạng được người mua, đây cũng là một cách giống như số PIN trên thẻ ghi nợ. Ngoài ra người bán cũng cần phải có một ID để người mua có thể nhận ra họ.

Trong lúc thiết lập Wallet người dùng sẽ tải xuống một chương trình được gọi là CyberCoin bằng việc rút tiền từ nhà băng qua Internet cũng giống bạn làm việc đó với một máy rút tiền tự động -ATM. Ðể xử lý thẻ tín dụng, chương trình sẽ chuyển số tiền đi từ tài khoản thẻ tín dụng và xử lý nó như một giao dịch thông thường, chứ không phải là một khoản tiền trả trước thường bị tính phí. Sau khi Wallet được cài đặt xong, khách hàng có thể bắt đầu việc mua hàng từ các cửa hàng chấp nhận các phương thức thanh toán CyberCash.



CyberCoin được xử dụng cho các khoản thanh toán rất nhỏ hoặc các khoản lặt vặt từ 25 xen đến 10 USD. Rất nhiều các sản phẩm hoặc dịch vụ được bán qua WEB nhu các bài báo hay một bức ảnh chỉ có mức giá thấp và ít tăng đến nỗi khách hàng không muốn sử dụng thẻ tín dụng do sẽ bị tính phí, đối với các mặt hàng có trị giá cao hơn thì khách hàng hay sử dụng thẻ tín dụng hơn là CyberCoin. Ðâu là điều khác nhau giữa một người sử dụng Wallet và một người không sử dụng Wallet, đó là việc xử lý thanh toán sẽ thuận tiện hơn và người sử dụng Wallet sẽ có một số lợi điểm hơn như việc các phần mềm Wallet và CashRegister sẽ lưu lại một bản ghi giao dịch và nó sẽ xuất hiện trên bản kê tiếp theo của thẻ tín dụng giúp khách hàng dễ theo dõi hơn các giao dịch của mình.



c. DigiCash



DigiCash có trụ sở tại Amsterdam là một công ty cung cấp các phương thức thanh toán an toàn và bảo mật, người tiên phong của ecash-tiền mặt điện tử được sử dụng qua Internet. Dựa trên công nghệ mã hoá khoá công cộng, cho phép người sử dụng và nhà băng trao đổi chữ ký điện tử với nhau để kiểm tra nhận dạng, ecash cho phép khách hàng tải về máy tính PC của họ tiền số hoá từ tài khoản ngân hàng để thực hiện việc mua hàng điện tử.

DigiCash môt tả ecash "như là sử dụng một máy rút tiền tự động ảo". Khi người sử dụng kết nối qua Internet vào một nhà băng tham gia vào chương trình ecash, họ sẽ tải xuống các "đồng xu điện tử" về đĩa cứng trên máy tính của mình. Sau khi thực hiện việc đặt hàng từ một cửa hàng trên WEB cũng tham gia vào chương trình ecash, khách hàng sẽ chuyển các "đồng xu điện tử" này từ trình duyệt WEB trên máy PC của mình về máy chủ của người bán hàng.

Phần mềm cho người sử dụng là khách hàng được gọi là purse-ví tiền, có giao diện đồ hoạ và chạy trên môi trưòng Windows 3.1 và các phiên bản tiếp sau. Người bán hàng tham gia vào chương trình ecash sẽ cần một phần mềm được cung cấp bởi DigiCash, có nhiều phiên bản từ xử lý từ các giao dịch đơn giản đến cả một hệ thống kế toán phức tạp bao gồm cả các chức năng như điều khiển kho hàng.

Các nhà băng và công ty lớn tham gia vào chương trình ecash có thể kể đến bao gồm: Deutsche Bank, Germany; Bank Austria, Austria; Den Norske Bank, Norway; Advance Bank, Australia; Nomura Reaserch Instritute, Japan; Mark Twain Bank, USA; và Eunet, Finland.



4.2. Giải pháp Millicent của Digital Equipment



Millicent là một công nghệ vi giao dịch được phát kiến bởi Digital Equipment Corp vào năm 1997. Hệ thống này có thể xử lý các giao dịch nhỏ đến một phần mười xen. Ðây là một hệ thống sử dụng các thủ tục được gọi là "brokers" để tập hợp các giao dịch nhỏ thành một lượng lớn đủ để xử lý và hình thành một "scrip-chứng khoán tạm thời" bao gồm một thông điệp xác định rằng thông điệp này có một giá trị riêng. Những người mua được quyền mua các chứng khoán tạm thời này sẽ xác định giá trị của nó.

Do các chứng khoán tạm thời này chỉ có giá trị kinh tế đối với người tạo ra nó nên không cần một giao dịch an toàn cho các chứng khoán tạm thời này. Người bán hàng phát hành các chứng khoán tạm thời này sẽ bảo vệ nó bằng việc sử dụng một mã khoá bảo mật trong phần tóm tắt của thông điệp.

Chủ tịch Robert Palmer của Digital mô tả Millicent là một phương thức tuyệt hảo cho các trò chơi video thanh toán theo nhu cầu sử dụng hoặc các bài báo chỉ bao gồm các ký tự và các người bán chứng khoán riêng lẻ. Millicent được giới thiệu vào đầu năm 1998.



a. Séc

Có hai cách để WEB site của bạn có thể nhận séc. Bạn có thể xây dựng các tờ séc ảo hoặc nhận thanh toán từ các thẻ ghi nợ liên kết với các tài khoản séc.

Thẻ ghi nợ cũng giống như thẻ tín dụng, chỉ khác là nó không trực tiếp truy nhập tới tài khoản séc của khách hàng. Nó là hậu duệ của thẻ ATM đã phổ biến từ đầu những năm 1980 được sử dụng để rút tiền từ các máy rút tiền của nhà băng và vẫn còn được sử dụng tới nay.

Ðiều thay đổi hiện nay các giao dịch của chúng đã được xử lý bình thường qua các mạng thẻ tín dụng của nhà băng. Giờ đây hầu hết các thẻ này đều có biểu tượng của Visa hoặc MasterCard. Ðiều đó có nghĩ là bạn có thể xử lý các giao dịch thẻ ghi nợ hết như là xử lý các giao dịch thẻ tín dụng, nhưng do tiền được chuyển tới trực tiếp từ tài khoản séc của người sử dụng nên chiết khấu sẽ thấp hơn.



b. Redi-Check



Redi-Check Inc. là một công ty chuyên xử lý các giao dịch ở Salt Lake City, Utah, cho ra đời một sản phẩm gọi là Internet Transaction Gateway, theo công bố là một phần mềm cho phép các cửa hàng trên WEB tiếp nhận séc trực tuyến. Redi-Check cũng chào hàng các dịch vụ bảo đám séc kể từ khi thành lập và mở rộng các dịch vụ này lên Internet kể từ tháng 3 năm 1997. Người bán có thể nhận được các dịch vụ xử lý, bảo vệ hoặc bảo đảm trên các tấm séc được tạo thành trực tuyến.

Ðể chào hàng dịch vụ này Redi-Check sử dụng các số ABA được in trên tấm séc giấy ở góc dưới bên trái của tờ séc. Số nhận dạng này sẽ được kiểm tra với hệ thống Federal Reserve để kiểm tra nhận dạng về nhà băng và khách hàng. Khi khách hàng viết một tấm séc trên máy chủ của người bán, số này sẽ được chuyển trực tiếp đến máy chủ của Redi-Check sau đó được kiểm tra với một danh sách mã bảo đảm của Federal Reserve. Redi-Check sau đó có thể xử lý giao dịch này như đối với một thẻ ghi nợ. Sau khi quá trình này hoàn thành cả người mua và người bán đều nhận được một bức thư điện tử để kiểm chứng giao dịch này.

Có ba mức bảo vệ được Redi-Check chào hàng. Trong quá trình xử lý số của nhà băng chỉ được kiểm tra thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu của Federal Reserve. Ðể bảo vệ cho những người bán có thể nhận được tấm séc này số tài khoản của người mua sẽ được so sánh với một danh sách các tấm séc hỏng và các tài khoản đã đóng. Một tấm séc đảm bảo giống như tên của nó mang ý nghĩa, người bán sẽ đảm bảo nhận được tiền thanh toán và cho phép họ có thể giao hàng ngay lập tức. Mỗi mức của dịch vụ sẽ đòi hỏi thêm một quá trình xử lý và sẽ tốn thêm các khoản chi phí.

Hệ thống của Redi-Check không chỉ giảm các chi phí cho hoạt động của người bán, nó còn có thể được dễ dàng cài đặt trên máy chủ WEB của bạn với một vài đoạn mã HTML và liên kết biểu mẫu đặt hàng của bạn với máy chủ Redi-Cash.

Vào năm 1998, Redi-Check cung cấp dịch vụ này cho các cửa hàng trên WEB với mức giá 249 USD và giảm giá 2% cho tất cả các giao dịch với điều kiện tối thiểu giao dịch đó có trị giá 25 USD. Dịch vụ bảo vệ séc cần thêm 15 USD nữa cho phí cài đặt và có giảm giá từ 0.02% cho đến 0.18% phụ thuộc vào độ lớn của số tiền trên séc. Dịch vụ séc bảo đảm có mức giá giống như bảo hiểm, với chi phí thêm trong khi thiết lập ban đầu là 50 USD và giảm giá 1.5% cho 500 USD giao dịch đầu tiên, 1.5% cho các giao dịch tiếp theo trong khoảng từ 500 USD đến 2,500 USD và tối đa là các séc có trị giá 2,500 USD. Tuy nhiên các dịch vụ bảo vệ và bảo đảm được sử dụng độc lập với nhau.

Theo Vnemart




Hoàng Anh

7 nguồn thu nhập tiềm năng trên mạng


Những mô hình kinh doanh đơn giản sẽ là bước khởi đầu thuận lợi, cho dù bạn chỉ muốn tạo một website cho công ty của mình hay thực hiện một dự án kinh doanh điện tử mới.


Bước chân vào thế giới kinh doanh điện tử là một cuộc phiêu lưu lớn với rất nhiều điều thú vị cho bất kỳ một doanh nghiệp nhỏ nào. Cho dù lập website mạng với mục đích quảng cáo hay giải trí, doanh nghiệp vẫn nên hướng website vào mục tiêu kiếm lợi nhuận. Bất kể kinh doanh lĩnh vực gì, bạn cũng cần nghĩ đến các biện pháp đa dạng hoá luồng doanh thu để tăng tối đa lợi nhuận.

Để giúp bạn lập các chiến lược mới, bài viết sau đây sẽ liệt kê 7 cách tạo doanh thu từ Web và cách kết hợp các biện pháp đó để tạo nên thành công.

Những nguồn lợi nhuận tiềm năng

Cho dù phát triển dự án kinh doanh mới, hay chỉ đơn giản ứng dụng mô hình kinh doanh sẵn có, mục tiêu chính của bạn là làm thế nào để tạo thu nhập. Có 7 cách sau đây để tạo thu nhập từ Web:

- Bán sản phẩm của chính mình
- Bán dịch vụ của chính mình
- Bán hàng kiểu drop-ship
- Giới thiệu các sản phẩm phụ trợ
- Bán quảng cáo
- Liên doanh với các công ty cùng khuynh hướng
- Xây dựng chương trình liên kết

Giải thích chi tiết hơn về mỗi biện pháp:

1. Bán sản phẩm của chính mình

Lợi ích chính của việc bán sản phẩm của chính mình là có thể kiểm soát được mức lợi nhuận mong muốn trên mỗi sản phẩm và vì thế bạn có khả năng tối đa hoá lợi nhuận. Bạn biết chính xác giá thành mỗi sản phẩm, và bạn có thể thử nghiệm các mức giá khác nhau để tìm ra mô hình giá chuẩn nhất. Đánh giá đúng giá trị hàng hoá và bỏ qua khâu trung gian sẽ giúp bạn có giá cả cạnh tranh để giữ chân khách hàng của mình.

2. Bán dịch vụ của chính mình

Cho dù bạn là một nha sĩ ở nông thôn, một nhà tư vấn luật cấp cao qua mạng, nhà môi giới bất động sản, một gia sư, người làm vườn, thợ máy, quản lý khách sạn, .... hay bất kỳ một việc gì đi nữa, bạn cũng có thể bán được dịch vụ đó qua mạng. Bán dịch vụ qua mạng có thể bắt đầu rất dễ dàng, nhưng trong phần lớn các trường hợp thì doanh thu không nhiều. Nguyên nhân là do trong khi những người bán sản phẩm thực có thể dự trữ hàng và chuyển giao ngay khi có đơn hàng, thì người cung cấp dịch vụ lại phụ thuộc rất nhiều vào quỹ thời gian của mình.

Khi bán dịch vụ, về cơ bản là bạn bán mối quan hệ của mình. Và điều này đòi hỏi bạn dành nhiều thời gian hơn để xây dựng uy tín và tạo quan hệ tốt với các khách hàng. Bạn không những phải tạo nên hiệu quả của dịch vụ mà còn phải tạo nên giá trị của mình để bán dịch vụ.

3. Bán hàng kiểu drop-ship

Là hình thức trung gian phân phối sản phẩm nhưng không dự trữ hàng mà hàng hoá được chuyển thẳng từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng, hoá đơn do nhà phân phối viết. Nếu bạn muốn bán sản phẩm mà không gặp phải những rắc rối trong việc theo dõi danh mục hàng, kho hàng và duy trì hệ thống giao nhận phức tạp, mô hình kinh doanh drop-ship là một lựa chọn tốt cho bạn. Mô hình này cho phép bạn bán những sản phẩm nổi tiếng, chất lượng cao trên website với hoa hồng cao, còn nhà sản xuất hay các công ty giao nhận sẽ đảm nhận hoàn toàn việc thực hiện đơn hàng. Họ dự trữ hàng, đóng gói theo yêu cầu và chuyển cho khách hàng.

4. Giới thiệu các sản phẩm phụ trợ

Các sản phẩm phụ trợ chính là những đối tác "an toàn" giúp bạn đa dạng hoá lợi nhuận bằng cách quảng bá cho sản phẩm hoặc dịch vụ của công ty khác trên trang của mình, để thu một tỷ lệ phần trăm nhất định trên doanh số bán được của họ. Khi là đối tác của một công ty, bạn sẽ được khoản hoa hồng khi giới thiệu ai đó mua thêm các sản phẩm phụ trợ trên trang của mình. Để quảng cáo sản phẩm của đối tác, bạn có thể đặt các banner kết nối đến trang của các đối tác, hoặc đưa thêm phần giới thiệu về sản phẩm của đối tác trong bản tin chính của bạn.

5. Bán vị trí quảng cáo

Một khi website của bạn đã có lưu lượng truy nhập đông đảo, bạn có thể dựa vào đó để bán quảng cáo. Các nhà quảng cáo sẵn sàng bỏ tiền mua quảng cáo khi họ được thấy bằng chứng về số khách hàng truy nhập. Tuy nhiên hiện nay, doanh thu quảng cáo đang giảm nhiều so với trước kia, vì vậy bạn không nên hy vọng quảng cáo sẽ trở thành nguồn thu nhập chính. Bán vị trí quảng cáo là một nguồn doanh thu phụ trợ lý tưởng, nhưng không nên trông chờ vào đó làm nguồn thu chính để duy trì hoạt động kinh doanh ổn định.

6. Liên doanh với các công ty bán các sản phẩm liên quan

Có thể liên doanh với tất cả các công ty có cùng khách hàng mục tiêu để hợp tác và kết hợp các kỹ năng, sản phẩm, dịch vụ, nguồn nhân lực nhằm tạo ra những dòng thu nhập mới. Một cách tuyệt vời để có lợi nhuận từ liên doanh là tìm kiếm những sản phẩm hay dịch vụ có ích cho các khách hàng thường ghé thăm website của bạn, sau đó tiếp cận với các công ty cung cấp sản phẩm hay dịch vụ đó. Hãy gợi ý rằng bạn sẽ giới thiệu sản phẩm của họ trên website, và bù lại họ sẽ trích phần trăm lợi nhuận cho bạn từ mỗi sản phẩm bán được. Phần lớn các công ty sẽ hài lòng với đề nghị này, bởi họ sẽ chẳng mất gì cho đến khi sản phẩm bán được.

7. Lập chương trình liên kết

Với chương trình liên kết của mình, bạn có thể tuyển dụng một đội ngũ thành viên (tức các chi nhánh) sẵn sàng giới thiệu sản phẩm của bạn trên website của họ để được hưởng một phần trăm từ doanh số họ bán được. Như thế, bạn có khả năng tăng thu nhập theo cấp số nhân dựa trên số thành viên mà bạn kêu gọi được, và bạn còn tiếp tục đào tạo các thành viên cũ để họ bán được nhiều hàng hơn, tăng số hoa hồng cho họ và thu nhập cho bạn.

Đó là một trong những mô hình quảng cáo trên mạng hiệu quả nhất. Nó cho phép bạn tăng lợi nhuận mà không cần mở rộng quy mô kinh doanh, bởi bạn không phải đi lại nhiều cũng như không tốn tiền cho nhân viên bán hàng và quảng cáo. Các chi nhánh sẽ quảng cáo cho bạn và bạn chỉ trả tiền cho họ nếu họ bán được hàng.

Chiến lược hiệu quả nhất là kết hợp nhiều biện pháp tăng thu nhập khác nhau vào trong mô hình kinh doanh của mình. Quan trọng là nên tập trung vào từng biện pháp một, tối đa hoá doanh thu và sau đó chuyển sang biện pháp tiếp theo.
Tất nhiên, việc áp dụng nhiều biện pháp đến đâu còn phụ thuộc vào ngân sách của công ty. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ thường có ngân sách hạn chế, do đó nên tập trung vào những nguồn thu chính thống và ổn định (như bán sản phẩm hoặc giới thiệu các sản phẩm liên quan) để đạt được kết quả nhanh nhất. Những ý tưởng khởi đầu cho bạn có thể là

Lựa chọn mô hình bán hàng

Phần lớn mọi người khi nói đến kinh doanh vừa và nhỏ trên mạng, họ đề cập ngay đến mô hình bán hàng bởi đó là con đường thẳng nhất để có thu nhập. Chức năng chính là bán hàng trên mạng, và vì thế mỗi khi bán được hàng, bạn sẽ có lợi nhuận. Bán được càng nhiều thì lợi nhuận càng cao.

Nhưng trên thực tế, một điều quan trọng trong mô hình bán hàng là một khi dòng doanh thu chính đã được thu xếp ổn định, bạn có thể thêm vào từng dòng doanh thu khác được đề cập trên đây để đa dạng và tối đa hoá thu nhập. Lấy ví dụ bạn đang điều hành một doanh nghiệp nhỏ sản xuất dụng cụ làm vườn. Trong quá trình bán hàng, bạn có thể bán sản phẩm chính (dụng cụ làm vườn), và đó là dòng thu nhập chính. Bên cạnh đó, bạn cũng có thể giới thiệu một dịch vụ bổ sung cho sản phẩm hoặc một sản phẩm khách hàng có thể cần đến trước hoặc sau khi sử dụng sản phẩm của bạn. Bạn có thể tìm thấy những sản phẩm có thể drop-ship để bổ sung cho sản phẩm chính. Bạn sẽ thu được phần doanh thu phụ không nhỏ khi chào bán được những sản phẩm dịch vụ kèm theo này.

Chẳng hạn, để khởi đầu bạn có thể lập một trang "Hướng dẫn về làm vườn" và trong đó giới thiệu các sản phẩm liên quan, chẳng hạn như sách báo về làm vườn, túi hạt giống, chậu cây, bình tưới... Sau đó, hãy chào bán quảng cáo cho những nhà kinh doanh quan tâm đến lĩnh vực làm vườn. Một lựa chọn khác là lập liên doanh với các nhà cung cấp khác. Bạn có thể tìm đến một chuyên gia về cây cảnh địa phương, người chưa bao giờ tham gia bán dịch vụ trên mạng, ký một thoả thuận chia lợi nhuận với họ nếu bạn tìm cho họ khách hàng. Sau đó, hãy tiến hành quảng bá cho dịch vụ của họ, chẳng hạn như gửi email cho các khách hàng của mình.

Cuối cùng, nên bắt đầu một chương trình liên kết, sử dụng các thành viên trong nhóm để quảng bá và bán hàng cho website của bạn.

Kết hợp trực tuyến và ngoại tuyến

Đây chính là kết hợp cả việc kinh doanh ngoại tuyến (offline) với trực tuyến (online) để quảng bá và mở rộng thị trường. Những gì thể hiện trên Web phụ thuộc vào loại hình kinh doanh ngoại tuyến mà bạn muốn. Dự án kinh doanh trên mạng có thể ở nhiều cấp độ, từ một trang có chức năng chính là công cụ marketing cho kinh doanh ngoại tyến đến một cửa hàng Thương mại điện tử hoàn chỉnh. Có thể kể ra đây một vài dòng thu nhập bạn nên cân nhắc khi tính đến dự án kinh doanh quy mô nhỏ trên mạng:

- Nếu loại kinh doanh ngoại tuyến liên quan đến bán sản phẩm, bạn có thể bán luôn qua mạng. Hai kênh bán hàng này có thể cùng chia sẻ nguồn lực, bao gồm chi phí quảng cáo, hệ thống thực hiện và kho hàng. Việc thêm kênh bán hàng qua mạng cho phép bạn mở rộng thị trường mà không cần tăng quy mô kinh doanh.

- Nếu kinh doanh dịch vụ ngoại tuyến thì việc quảng bá những dịch vụ này trên mạng cũng rất hiệu quả, bất kể là với loại hình dịch vụ nào, từ môi giới bất động sản, bác sĩ, luật sư, thợ làm tóc... Tất nhiên, trên website bạn chỉ tập trung quảng bá vào đối tượng là khách hàng trong phạm vi địa lý bạn có thể cung cấp dịch vụ được.

Khi đã có vị trí trên mạng, bạn có thể bán quảng cáo cho các nhà kinh doanh địa phương. Chẳng hạn nếu là người môi giới bất động sản, bạn có thể chào mời các công ty làm dịch vụ dọn dẹp nhà cửa, vận chuyển đồ đạc quảng cáo trên website của mình. Bạn cũng có thể lập liên doanh với các nhà kinh doanh địa phương. Chẳng hạn tạo một trang "Liên kết" với các thông tin hữu ích về các nhà kinh doanh địa phương, từ cửa hàng bánh pizza, cửa hàng cho thuê băng đĩa, cửa hàng sửa chữa nhà cửa, đồ điện, làm đẹp. Trên đó bạn cung cấp cho khách hàng phiếu giảm giá hoặc dự thưởng (có thể in ra). Khách hàng sẽ mang phiếu đó đi mua hàng tại các địa điểm bạn quảng bá, và cứ mỗi người như vậy, bạn hãy yêu cầu một phần trăm doanh thu nhất định.

Và cuối cùng, như đã nêu ở trên, bạn nên lập một dự án liên kết. Với dự án này, các thành viên sẽ tìm khách hàng trực tuyến cho bạn, trong khi bạn xúc tiến kinh doanh ngoại tuyến. Bạn cũng có thể quản lý bằng cách cung cấp phiếu giảm giá (coupon) cho chi nhánh để họ thu hút khách hàng đến với bạn.

Hãy nhớ rằng, cả hai mô hình kinh doanh trên đây sẽ rất hiệu quả khi bạn kết hợp nhiều dòng doanh thu để tối đa hoá lợi nhuận. Chẳng hạn, nếu bạn muốn theo mô hình bán hàng, bạn có thể vừa tự bán sản phẩm vừa lập một nhóm chi nhánh để bán hàng thay bạn. Drop- ship cũng là một lựa chọn để đa dạng hoá sản phẩm.
Đa dạng hoá sẽ cho phép bạn có mọi lựa chọn để phù hợp với các điều kiện kinh doanh khác nhau. Và xin nhớ, nếu bạn luôn giới thiệu những sản phẩm dịch vụ tốt, khách hàng sẽ luôn quay trở lại.

Theo business2.com



Hoàng Anh

Một số vấn đề kỹ thuật trong thương mại điện tử



"Thương mại điện tử không phải là một giải pháp đơn giản", Barzdukas nhấn mạnh, "Có rất nhiều điều phức tạp xuất hiện, rất nhiều mối tương tác xảy ra với nhiều đối tác khác nhau, nhiều công nghệ khác nhau. Hệ thống sẽ phải giải quyết hàng nghìn mối liên hệ khác nhau giữa rất nhiều các công ty khác nhau và các hệ thống khác nhau"



1. Giới thiệu một số giải pháp Thương mại điện tử điển hình



1.1. Giải pháp Thương mại điện tử của Microsoft Corp



Vào tháng 4 năm 1998 Microsoft Corp. cho ra đời phiên bản Microsoft WEB site Server 3.0 Commerce Edition một sản phẩm dùng cho Thương mại điện tử nhằm vào các doanh nghiệp vừa và lớn quan tâm đến việc xây dựng các WEB site Thương mại điện tử cho cả hai môt hình doanh nghiệp-tới-người dùng (B2C) và doanh nghiệp-tới-doanh nghiệp (B2B). Các khách hàng sử dụng Microsoft WEB site Server 3.0 Commerce Edition có thể kể đến bao gồm Office Depot, BarnesandNoble.com, 1-800-FLOWERS, Eddie Bauer, Tower Records và nhiều công ty thành công khác trong lĩnh vực Thương mại điện tử. Phần mềm này có mức giá 4,609 USD cho một máy chủ với bản quyền truy nhập cho 25 người dùng hoặc 5,599 USD cho một máy chủ và bản quyền truy nhập cho 50 người.

"Kinh doanh trực tuyến không đơn thuần chỉ là việc nhận các giao dịch trên WEB", Gytis Barzdukas, giám đốc sản phẩm của bộ phận tiếp thị Internet tại Microsoft giải thích về chiến lược Thương mại điện tử của Microsoft, "cần phải tự động hoá toàn bộ qúa trình kinh doanh trong thực tế từ bộ phận lãnh đạo, nghiên cứu thị trường và quảng cáo cho đến các đối tác kinh doanh".

Microsoft WEB site Server 3.0 Commerce Edition bao gồm ba phần chính sau:

1. Tiến hành-Engage: Thành phần này giúp cho các doanh nghiệp tạo dựng các WEB site Thương mại điện tử, tiến hành các công việc tiếp thị và quảng cáo trên WEB site cũng như tạo các trang WEB động phù hợp với sở thích của mỗi cá nhân khi truy nhập vào WEB site này. Các đặc tính của phần này bao gồm:

Ad Server, công cụ thực hiện các quảng cáo trực tuyến.
Intelligent CrossSell, tự động thực hiện các chương trình khuyến mại riêng biệt hoặc đan chéo.
Buy Now, công cụ tiếp thị trực tiếp cho phép các công ty trình bày thông tin sản phẩm và các mẫu đơn đặt hàng trên WEB cũng như thu thập các thông tín của khách hàng trong các pano quảng cáo hoặc dưới các khuôn dạng trực tuyến khác.
WEB site Server Personalization and Membership, công cụ cho phép tự động tạo ra các kịch bản của Active Server Page (một dạng ngôn ngữ kịch bản lập trình của Microssoft sử dụng trên WEB).
Database and Database Schema Independence, kết nối với các hệ cơ sở dữ liệu và kiến trúc cơ sở dữ liệu độc lập.
WEB site Foundation Wizard, cho phép người quản trị hệ thống tạo dựng các cấu trúc nền tảng của WEB site bao gồm cả thư mục ảo và thư mục vật lý.
WEB site Builder Wizard, cho phép các chủ cửa hàng trên mạng tạo các cửa hàng riêng biệt hoặc cửa hàng với nhiều cấp khác nhau.
Commerce Sample WEB sites, năm cửa hàng mẫu sẵn có được xây dựng bằng Active Server Pages giúp cho người sử dụng có được một ví dụ hoàn chỉnh về một hệ thống Thương mại điện tử ở nhiều mức.
Integration with Microsoft Visual InterDev, một hệ thống phát triển tích hợp cho phép xây dựng các ứng dụng WEB động.
Content Deployment, cho phép người quản trị WEB site tách rời các phần đang phát triển với các phần sẵn có và đang hoạt động của WEB site.
Pipeline Configuration Editor, một công cụ soạn thảo cho phép người quản trị sửa đổi các quá trình đặt hàng hoặc các đường kết nối chuyển đổi thông tin thương mại.
Commerce Server Software Development Kit (SDK), công cụ để xây dựng các thành phần của một quá trình xử lý đơn đặt hàng.
Microsoft Wallet Software Development Kit (SDK), công cụ cho các nhà phát triển thứ ba mở rộng hệ thống thanh toán của Microsoft với các kiểu thanh toán của họ.
Migration and Comptibility from Commerce Server 2.0, khả năng nâng cấp và tương thích ngược với các ứng dụng từ phiên bản 2.0 trước đó.


2. Giao dịch-Transact: Cho phép người quản lý hệ thống kiểm soát các giao dịch tài chính trực tuyến với các khả năng bảo mật, tiếp nhận các đơn đặt hàng nhiều mức, quản lý và định hướng các giao dịch. Các đặc tính của thành phần này bao gồm:

Corporate Purchasing Support, gồm các tính năng kiểm tra quyền truy nhập hệ thống của nhân viên, các lưu đồ và đánh dấu phê chuẩn một quá trình mua hàng của công ty, sơ đồ lưu trữ thông tin về các sản phẩm cần mua, hỗ trợ các đơn mua hàng có nhiều khuôn dạng đầu ra cần xử lý khác nhau.
Commerce Interchange Pipeline, một hệ thống cho phép trao đổi thông tin với các hệ thống thông tin kinh doanh có cấu trúc sử dụng Internet hoặc các hệ thống EDI sẵn có.
Order Processing Pipeline, một hệ thống các bước xử lý đơn đặt hàng tương ứng theo các quy tắc kinh doanh khác nhau.
Windows NT Integration, tích hợp với Windows NT.
Windows NT Security Support, hỗ trợ các cơ chế bảo mật của Windows NT.
Integration with Microsoft Internet Information Server 4.0, tích hợp với Microsoft Internet Information Server 4.0.
Integration with Microsoft Transaction Server, tích hợp với Microsoft Transaction Server.
Microsoft Wallet Integration, tích hợp với Microsoft Wallet.


1. Phân tích-Analyze: Giúp các công ty đánh giá được các giao dịch mua bán của khách hàng và bạn hàng, các mức sử dụng dữ liệu để có thể đưa ra được các quyết định thay đổi nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình kinh doanh điện tử. Các đặc tính của thành phần này bao gồm:

Analysis, phân tích chi tiết các giao dịch mua bán và tần số truy nhập của WEB site

Purchase and Order Hístory, lưu trữ các thông tin về các lần mua hàng của khách hàng trong qúa khứ.
WEB site Server Administrator, cung cấp một công cụ quản lý tập trung cho tất cả các chức năng của hệ thống.
Promotion and Cross Sell Manager, hỗ trợ cho giám đốc tiếp thị thực hiện các chương trình khuyến mại cho một sản phẩm hoặc đan chéo nhiều sản phẩm.
Order Manager, quản lý toàn bộ các dữ liệu bán hàng theo tháng, năm, sản phẩm, chủng loại hoặc toàn bộ các sản phẩm.v.v..
"Thương mại điện tử không phải là một giải pháp đơn giản", Barzdukas nhấn mạnh, "Có rất nhiều điều phức tạp xuất hiện, rất nhiều mối tương tác xảy ra với nhiều đối tác khác nhau, nhiều công nghệ khác nhau. Hệ thống sẽ phải giải quyết hàng nghìn mối liên hệ khác nhau giữa rất nhiều các công ty khác nhau và các hệ thống khác nhau". Ðiều mà Barzdukas muốn nói tới là các vấn đề liên quan đến cơ sở dữ liệu sản phẩm, xử lý thanh toán, tính toán thuế, và cơ sở dữ liệu về khách hàng. Ðiều mà Microsoft muốn làm theo Barzdukas nói là "Biến WEB site Server thành một nền tảng cho các công việc kinh doanh, phát triển Thương mại điện tử, mở rộng , tích hợp và cảI tiến các công việc kinh doanh mà công ty đang thực hiện".

Giải pháp của Microsoft là một hệ thống mở và có khả năng mở rộng kết nối với các hệ thống khác cung cấp các chức năng phức tạp hơn như xử lý thanh toán của CyberCash hoặc xử lý các giao dịch nền của các công ty như Open Market Inc. .



1.2. Giải pháp Thương mại điện tử của IBM



Chiến lược Thương mại điện tử của IBM được gọi là e-business, nó bao gồm cả phần cứng và phần mềm cho an toàn trên mạng thông qua xử lý giao dịch. Ðối với thương mại trên WEB, IBM có sản phẩm được gọi là Net.Commerce một phần mềm chạy trên máy chủ cho cả hai ứng dụng doanh nghiệp-tới-doanh nghiệp (B2B) và doanh nghiệp-tới-người dùng (B2C). Giá khởi đầu của Net.Commerce là 4,999 USD, dành cho các doanh nghiệp hoặc chủ kinh doanh muốn thiết lập một cửa hàng trực tuyến riêng của họ hoặc bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Ngoài ra nếu các công ty có nhu cầu mở rộng các ứng dụng của Net.Commerce thì họ có thể nâng cấp lên phiên bản hỗ trợ nhiều vi xử lý và phải chi thêm một khoản tiền nhất định. Net.Commerce là một phần mềm mà trên đó các giải pháp về Thương mại điện tử của IBM được thực hiện. "Chúng tôi tập trung toàn bộ vào khả năng nâng cấp của hệ thống và tích hợp với các hệ thống cơ sở dữ liệu cỡ lớn", Tom Patterson, giám đốc về chiến lược Thương mại điện tử của IBM cho biết.

Các khách hàng lớn của IBM sử dụng giải pháp Net.Commerce có thể kể đến bao gồm, Borders Books and Music với doanh số 1 tỷ USD một năm dùng giải pháp Net.Commerce để thiết lập một cửa hàng trực tuyến trên WEB. Aero-Marine Products, nhà sản xuất có doanh thu 5 tỷ USD một năm, có kế hoạch giới thiệu 80,000 linh kiện điện tử của mình trên mạng. Net.Commerce bao gồm các tính năng sau:

SET Support: Hỗ trợ chuẩn công nghiệp cho Giao dịch Ðiện tử An toàn-Secure Electronic Transactions (SET), được phát triển bởi một tổ hợp các công ty bao gồm MasterCard, Visa, IBM, Netscape, VeriSign
Intelligent Catalog Technology: Cung cấp một "trợ giúp bán hàng ảo" cho việc xem xét và thu nhận các thông tin về sản phẩm trên WEB.
ODBC support: Cho phép người quản lý sử dụng hệ thống với các hệ thống quản trị cơ sở dữ liệu cớ lớn như Oracle, Sybase, Informix…
Support for Netscape Enterprise Web Servers: Cho phép các công ty mở rộng các WEB site đạng chạy trên nền Netscape Server với các tính năng được thiết lập cho một cửa hàng điện tử trên mạng.
Ngoài ra IBM còn kết hợp với các công ty khác như Taxware International, First Virtual Holding để cung cấp cho khách hàng các các ứng dụng như tính thuế, xử lý thanh toán và các chức năng khác mà IBM không cung cấp. Ðiểm mạnh của Net.Commerce là khả năng tích hợp nền với các hệ thống cơ sở dữ liệu như Oracle , Informix đồng thời cho phép tạo dựng một cách mềm dẻo các gian hàng trên WEb với khả năng tìm kiếm thông minh cho một số lượng sản phẩm lên đến hàng chục nghìn và hoàn toàn tương thích với SET.



2. Những vấn đề cần quan tâm đến nhà cung cấp dịch vụ mạng (ISP) và nhà thiết kế mạng.



Trong thời buổi bùng nổ thông tin như ngày nay thì số lượng các nhà cung cấp các dịch vụ mạng (ISP) và số các nhà thiết kế mạng tăng lên nhanh chóng khiến cho chúng ta có nhiều cơ hội để lựa chọn. Có rất nhiều nhu cầu từ phía các khách hàng đối với các nhà cung cấp dịch vụ mạng mà các nhà thiết kế mạng. Các ISP và các nhà thiết kế mạng thông thường đưa ra năm kiểu dịch vụ: truy cập thông qua hệ thống điện thoại hoặc sử dụng các đường thuê riêng (leased line), các dịch vụ web hosting, phát triển website và đặc biệt là các dịch vụ thiết kế web cho các cơ sở dữ liệu và việc đào tạo qua mạng.

Một số vấn đề mà chúng ta cần lưu ý khi truy cập trên Internet:

· Vấn đề giả cả của họ như thế nào?

· Bao nhiêu người dùng chung một modem mà doanh nghiệp không phải trả thêm tiền?

· Có hỗ trợ kỹ thuật 24/24 không? Chất lượng hỗ trợ kỹ thuật như thế nào?

· Các dịch vụ cụ thể là gì, sử dụng chúng như thế nào?

· Tốc độ đường truyền có nhanh không, sự ổn định của mạng có được duy trì thường xuyên không?



Một số vấn đề mà chúng ta cần lưu ý tới Web hosting

· Sự kết nối Internet nhanh như thế nào? Bạn so sánh như thế nào với tốc độ mà được cung cấp bởi các ISP khác?

· Có bao nhiêu bộ nhớ cho một người sử dụng (thông thường là từ 2-8Mbytes)

· Tôi có có được tên miền thông qua bạn và chi phí là bao nhiêu?

· Bạn sẽ phát triển như thế nào và kế hoạch phát triển của bạn là gì?

· Các công cụ quản lý site mà bạn cung cấp là gì?

· Bạn có đưa ra Telnet và FTP để truy cập tới site đó không?

· Bạn có đưa ra các dịch vụ trị giá gia tăng như chương trình Microsoft FronPage mở rộng không?



Một số vấn đề mà chúng ta cần lưu ý đối với các nhà thiết kế web?

· Những địa chỉ website nào tốt nhất mà bạn đã từng thiết kế?

· Những site với chi phí đắt nhất và rẻ nhất mà bạn đã tạo ra là gì?

· Bạn mất thời gian bao lâu để tạo ra một website?

· Bạn thực hiện việc đồ hoạ trong các website như thế nào?

· Bạn sẽ giúp chúng tôi quảng bá website của chúng tôi như thế nào?

· Ðăng ký với các nhà cung cấp dịch vụ tìm kiếm như thế nào?



2. Cách thức tạo ra một website



Ðể tạo ra một Website có chất lượng đòi hỏi bạn phải có một kỹ năng thành thực và một sự nghiên cứu kỹ về Web. Bạn phải biết mình sẽ làm gì và không nên làm gì để đưa tất cả các ý tưởng đó vào việc xây dựng một Website.

Ðể tạo ra một Website bạn cần phải theo làm theo những bước sau đây:

Bước 1: Ðây là giai đoạn định hướng. Bạn cần phải đề cập đến những vấn đề sau đây:

· Những ý tưởng tổng quan của bạn

· Mục đích của bạn cần đạt tới đối với website của bạn

· Ðối tượng mà bạn cần nhắm tới là ai

· Bạn đã có những thông tin gì trong tay và bạn sử dụng chúng như thế nào

· Bạn sẽ tổ chức thông tin như thế nào để bảo đảm sự truyền đạt thông tin là được sáng tỏ

Bước 2: Sau khi đã đưa ra được các điểm trên bạn sẽ:

· Tiến hành tổ chức các phần mục và các thông tin mà bạn có trên site của bạn. Tạo ra các nhánh, các tiêu đề và các tiêu để phụ để bạn có thể tìm kiếm thông tin hữu ích một cách dễ dàng để không lãng phí thời gian đối với các thông tin mà bạn không quan tâm.

· Lựa chọn các từ khoá thích hợp để thuận tiện cho việc tìm kiếm và sử dụng các dịch vụ tìm kiếm.

Bước 3:

· Lựa chọn các hình ảnh đưa lên site của bạn từ thư viện điện tử hoặc từ trên đĩa CDROM. Ðó có thể là những hình ảnh về sản phẩm, văn phòng làm việc của bạn, các chuyên gia chính của công ty.

· Chuyển đổi các hình ảnh đến vị trí thích hợp và có sự chỉnh sửa về mầu sắc và kích cỡ cho phù hợp.

Bước 4:

· Khi bạn đã có bộ khung của mình thì bạn bắt đầu chuẩn bị tạo ra website bằng việc sử dụng ngôn ngữ siêu văn bản (HTML). Tiến hành chuyển đổi các văn bản text của mình tới HTML mà bạn có thể làm bằng World, Netscape, Homesite và một vài các gói thông tin được lựa chọn khác. Chúng ta đã có một vài chương trình phần mềm rất thuận tiện cho người sử dụng mà có thể chuyển đổi một cách tự động từ dạng text thành ngôn ngữ HTML mà thậm chí bạn không cần biết một chút gì về HTML.

· Bạn có thể lựa chọn khi bạn thiết kế website của bạn hoặc là bạn tham gia vào các khoá đào tạo về thiết kế web ngay từ đầu hoặc bạn có thể thuê các chuyên gia bên ngoài về thiết kế web để giúp cho bạn.

Bước 5:

· Lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ Internet để đưa website của bạn lên Internet

Bước 6:

· Thiết lập tên miền của bạn

· Ðăng ký tên website của bạn với các nhà tìm kiếm

· Quảng cáo và khuyếch trương website của bạn đối với các khách hàng mục tiêu. Có thể thực hiện được điều này thông qua các phương pháp truyền thống như gửi thư, truyền thanh, truyền hình cũng như có các biển hiệu quảng cáo.

· Một điều quan trọng là bạn thông qua các công cụ tìm kiếm tiện ích như (Lycos, Alta Vista, Google...) đảm bảo rằng website của bạn phải thật nổi bật. Ðây là việc tốn rất nhiều thời gian.

· Một điều rất quan trọng là các thông tin của bạn phải được cập nhật hàng ngày



3. Vấn đề tên miền và bảo vệ tên miền



Trong một môi trường Internet khổng lồ để có thể dễ dàng cho phép mọi người tìm thấy website của bạn thì việc thiết lập một tên miền để cá biệt hoá bạn là điều rất cần thiết (Ví dụ như tên miền của ITC là .intracen.org). Chúng ta phải làm việc đó vì đó sẽ khiến cho mọi người tìm thấy bạn một cách dễ dàng hơn nhiều so với việc nhớ địa chỉ IP của bạn trên Internet.

Thông thường mọi người sử dụng một nhóm của bốn các chữ số giữa 0 và 255 cùng với dots giữa từng nhóm như là địa chỉ của họ trên Internet: ví dụ 163.45.210.32. Sẽ không có một sự tương quan cố hữu nào bất cứ các nhóm con số và một tên miền của bạn ví dụ như bất cứ một công ty máy tính nào với tên miền .com hoặc đặt tại Nigeria có thể tìm thấy một cách dễ dàng tại địa chỉ IP. Sẽ rất đơn giản trong việc kết nối giữa bất cứ một địa chỉ IP nào và tên miền do được lưu trữ trong cơ sở dữ liệu là Hệ thống tên miền (DNS).

Sựu ra đời DNS là một thành tựu của hệ thống Internet toàn cầu và là một minh chứng cho sự hợp tác quốc tế tư nhân nổi bật. Hệ thống này được duy trì và kiểm soát bởi Hiệp hội Internet về đăng ký tên và chữ số (ICANN) là một tổ chức cá nhân phi lợi nhuận mà tiền thân được thành lập với mục đích hỗ trợ chính phủ Mỹ.

Tên miền được chia thành 2 cấp độ cao nhất: tên miền quốc tế và tên miền quốc gia.

Tên miền quốc tế là những tên miền có phần đuôi là com, net, org và đến cuối năm nay sẽ chính thức có thêm tên miền biz và info.

Tên miền quốc gia có phần đuôi là ký hiệu của mỗi quốc gia. Ký hiệu này do ICANN tổ chức và quản lý. Việt nam có phần đuôi là VN, Australia có tên là AU, Pháp là FR,...Hiện nay có hơn 200 tên miền quốc gia khác nhau. Dưới mỗi tên miền quốc gia có tên miền cấp 2 và cấp 3 (ví dụ COM.VN, EDU.VN,...).

Hiện nay vấn đề đăng ký và bảo vệ tên miền là một trong những vấn đề nổi cộm. Về phía các doanh nghiệp họ cần phải có những hiểu biết cơ bản về bản quyền và về sở hữu trí tuệ để có tìm cách bảo vệ tên miền và nội dung mà mình đưa lên trang Web.

Ðể bảo vệ tên miền Internet một điều cần thiết và tương đối đơn giản là đăng ký tên miền đó với các tổ chức quốc tế có các chức năng lưu trữ và quản lý tên miền. Nói chung, khi doanh nghiệp thiết kế trang Web nên giao việc đăng ký tên miền cho nhà thiết kế hoặc cho nơi đặt nội dung trang Web (Web hosting).

Nếu doanh nghiệp tự đăng ký, trước hết chúng ta nên xem tại trang Web có địa chỉ (http://www.internic.com) hoặc http://www.registerfly.com xem tên mình định đăng lý có trùng với một tên nào đó đã đăng ký trước hay không, nếu không chỉ việc gửi tên miền của mình tới InterNIC theo mẫu được hướng dẫn ngay trên trang Web của InterNIC.






Hoàng Anh

Những thủ đoạn kiếm tiền online


Sau chuyện này, hẳn biên tập viên của một số báo sẽ không thể quên kinh nghiệm xương máu: Nếu không kiểm chứng thông tin, tốt nhất là không đăng tải tin, kẻo vô tình "nối giáo" cho trò lừa đảo trục lợi của một số cư dân mạng láu cá.


Kỳ I: "Triệu phú trẻ kiếm tiền online" chỉ là trò lừa đảo! Câu chuyện làm xôn xao giới IT Việt
Bài báo viết về T.H, nói rằng cậu có thể kiếm hàng trăm ngàn USD bằng kinh doanh online (ảnh chụp màn hình).
Đầu tháng 2/2007, một trong những tờ báo điện tử uy tín của Việt Nam đăng tải thông tin về chàng sinh viên Mỹ gốc Việt chưa đầy 23 tuổi kiếm được 120 ngàn USD chỉ trong vòng ba tháng, và đang nuôi giấc mơ thành triệu phú nhờ vào các hoạt động trên mạng. Giới trẻ Việt Nam, đang trong cơn sốt mới mang tên "kiếm tiền trực tuyến" (Online Money Maker) lập tức xôn xao vì thông tin này.Bài báo đã được gỡ xuống cách đây vài tuần, nhưng vẫn còn rất nhiều bản sao của nó vẫn được đọc và phát tán trên mạng. Có khoảng ít nhất 10 ngàn nội dung trên mạng đăng tải lại nguyên văn hoặc dẫn đường link tới bài báo trên (theo kết quả tìm kiếm của Google). Không ít người tỏ thái độ tự hào và cổ vũ anh chàng nhân vật chính.Trong bài báo, T.H (tên nhân vật chính được viết tắt) nói rằng cậu ta có thu nhập rất cao, bằng các hoạt động kiếm tiền trực tuyến, T.H lập một trang web và kiếm được 120 ngàn USD chỉ trong ba tháng, thậm chí mua được xe hơi. Cậu ta cũng cung cấp trên báo các bức ảnh làm bằng chứng về sự giầu có của mình, trong đó có cả một chiếc xe hơi đời mới. Còn trên website thì đăng tải hình ảnh những tấm séc trị giá rất lớn mà cậu ta là người được nhận.Ngay lập tức, nhiều chuyên gia và những người có hiểu biết về thế giới mạng đã đặt ra những nghi vấn thông qua "câu chuyện cổ tích thời @" này.Quá nhiều nghi vấnCâu chuyện của T.H được mổ xẻ đầu tiên và khá cặn kẽ trên Diễn Đàn Tin Học (www.ddth.com). Hàng trăm người đã tham gia thảo luận và đưa ra sở cứ về những nghi vấn cho rằng đây là chuyện "xạo 100%".Điều ai cũng dễ nhận thấy nhất là sự mâu thuẫn trong thông tin do chính T.H cung cấp cho phóng viên: Cậu ta có một trang web nhờ kinh doanh online mà kiếm được 120 ngàn USD trong vòng ba tháng, sau đó rao bán lại domain này với giá 6 ngàn USD.Nếu là bạn, bạn có bán thứ có thể mang lại 40 ngàn USD/ tháng với giá 6 ngàn USD vĩnh viễn cho người khác không?Một số thành viên trên diễn đàn tin học kiểm tra lượt truy cập và xếp hạng của trang web mà T.H nêu ra trong bài báo. Kết quả cho thấy vào thời điểm bài báo được đăng tải, website của T.H thậm chí còn... chưa được Alexa xếp hạng. Nay thì nó đứng thứ 618,006 (Có lẽ do tác động của các bài báo viết về T.H, song đây vẫn là một con số rất khiêm tốn.) "Với thứ hạng như vậy mà T.H nói rằng có hàng triệu lượt truy cập và kiếm được hàng chục ngàn USD nhờ đặt link quảng cáo thì chắc chắn là lừa đảo". - Một người quả quyết.Điều quan trọng hơn, những "bằng chứng" về nguồn thu nhập khổng lồ mà T.H nêu lên là giả.Với tấm ảnh những tờ séc nhận tiền trị giá hàng chục ngàn USD đứng tên mình, rõ ràng T.H đã tạo nó bằng... Photoshop. Tấm sec được T.H đăng lên website ngày 18/11/2006, nhưng ở dưới tờ sec lại ghi rõ khoản tiền được thanh toán cho thời gian một tháng từ 1 - 30/11/2006. Không ai thống kê và trả công cho bạn cả tháng khi mà bạn mới làm được nửa tháng!Một điểm đáng nghi ngờ nữa là, tấm ảnh tờ séc trị giá 38 ngàn USD mà T.H post lên website có ghi rõ do "cậu chàng" được CJ.com trả công. CJ.com là công ty làm dịch vụ Affiliate Programs - trả hoa hồng cho những người giúp họ tiếp thị trực tiếp hàng hoá qua mạng. CJ.com thường chi vài % hoặc vài USD khi bán được một món hàng. Như vậy để có được 38 ngàn USD tiền hoa hồng, T.H phải giúp công ty này bán được số hàng hoá khổng lồ trị giá hàng triệu USD qua mạng mỗi tháng - một con số lớn đến phi lý..."Trò đùa" hay "lừa đảo"!
(Và lời xin lỗi muộn màng của T.H trên website sau khi bị cộng đồng tin học Việt Nam chỉ ra trò kinh doanh của cậu chỉ là mánh lới lừa đảo - Ảnh chụp màn hình).
Cho đến khi các thành viên Diễn Đàn Tin Học lần lượt đưa ra những sở cứ xác đáng. T.H đã buộc phải thừa nhận toàn bộ câu chuyện của mình chỉ là một... trò đùa!Sau ba ngày, T.H tự đóng cửa trang web của mình, và đưa lên đó một dòng thông báo vội vàng: "Đây chỉ là một trò đùa". Cậu ta cũng đính chính về các thông tin mà tờ báo điện tử tại Việt Nam đăng về mình: "Bài báo đó đã không nhận ra đây chỉ là một trò đùa!" (THE NEWS DID NOT EVEN RECOGNIZE THIS IS JUST A JOKE).Thế nhưng có thật anh chàng láu cá này chỉ "đùa" hay không?"Đó thực chất là một trò lừa đảo" - một thành viên của Diễn đàn tin học nói: "tôi đã liên hệ với phóng viên viết bài báo này và phóng viên đó nói rằng đã phỏng vấn T.H qua email. Như vậy việc cậu ta cung cấp thông tin cho báo chí là có chuẩn bị và có mục đích".Chiêu của T.H là đưa lên mạng một trang web, trên đó cậu quảng bá các thông tin về bản thân, nói rằng mình có thu nhập rất cao nhờ vào các phương pháp kiếm tiền trực tuyến. Cậu đưa ra các bằng chứng về nguồn thu nhập và sự giầu có của mình để "câu khách".Sau đó T.H dụ những người đã vào đọc site của cậu trả tiền để được đọc những ý tưởng kiếm tiền online của mình. Rất nhiều người sẵn sàng trả tiền để đọc những ý tưởng vô thưởng vô phạt của cậu chàng láu cá. Đây mới là lúc T.H "kiếm tiền" thực sự.Chiêu kiếm tiền của T.H đặc biệt có tác dụng lớn khi được bài báo nọ "nối giáo" giúp quảng bá website và tăng uy tín cho cá nhân cậu.Thực tế là sau khi bài báo đăng thông tin về T.H được tung lên mạng ngày 1/2/2007, thì ngay ngày hôm sau cậu đã tự tăng giá từ 2,9 USD lên thành 5,9 USD cho mỗi lượt người đọc các ý tưởng kinh doanh trên website của cậu.Sang ngày hôm sau, hàng loạt báo điện tử, trang tin điện tử, website, diễn đàn... tại Việt Nam đăng lại bài báo, T.H nâng tiếp giá lên 8,9 USD.Tất cả những điều đó liệu có phải một trò đùa?Bài học cho nhiều ngườiTrước những sức ép như thế từ cộng đồng mạng Việt Nam, T.H một lần nữa sửa lại lời xin lỗi trên website. "Tôi đã nói dối phóng viên, vì thế những gì bài báo viết về tôi là sai". (I LIED TO THE NEWS, SO WHAT THEY WROTE ABOUT ME IS FALSE).T.H đưa ra lời xin lỗi: "Tôi xin thành thật nhận lỗi về những việc tôi làm và những rắc rối mà mình gây ra", đồng thời khẳng định sẽ hoàn lại số tiền cho những nạn nhân đã bị lừa trước đây.Việc cậu chàng láu cá có hoàn lại tiền cho các nạn nhân hay không thì chưa biết, vì cậu này vẫn đang học bên Mỹ. Nhưng có người đã tỏ ra thông cảm hơn với thái độ thành khẩn của T.H. Có lẽ đây cũng là bài học cho nhiều người, tin vào những mối lợi trời cho, bạn có thể trở thành nạn nhân cho mánh lới kiếm tiền phi pháp của những kẻ láu cá trên mạng...Những người khác thì chĩa sự bực tức vào tờ báo điện tử đã đăng thông tin sai: "Chúng tôi đã thông báo cho phóng viên nọ, và tờ báo đã rút bài xuống, nhưng kiên quyết không chịu đăng bài đính chính. Đây không phải là phong cách truyền thông chuyên nghiệp". Một thành viên Diễn Đàn Tin Học bức xúc.Danh dự của tờ báo, sự thất vọng của một số người từng tin vào "triệu phú trẻ tuổi kiếm tiền online" quan trọng hơn, hay cả một xu hướng xấu theo những tác động của bài báo đối với giới trẻ Việt Nam quan trọng hơn?Rồi sẽ có hàng trăm bạn trẻ Việt Nam học theo đó "lừa đảo" để kiếm tiền trực tuyến ư? Và hàng ngàn người khác coi họ là thần tượng?Đây là một trò lừa đảo rất phổ biến trên Internet. Bạn hãy chú ý rằng nếu kiếm tiền dễ như vậy thì tại sao họ không tự thực hiện mà đem bán cho bạn, cũng để lấy một số tiền - nhỏ hơn hằng trăm lần?Sau câu chuyện này, hẳn phóng viên, biên tập viên của một số báo trong nước sẽ không thể quên: Nếu không thể kiểm chứng thông tin, thì tốt nhất là đừng đăng nó, kẻo vô tình "nối giáo" cho trò lừa đảo trục lợi của một số cư dân mạng láu cá.
Những thủ đoạn kiếm tiền online (phần 2)

Dân mạng trẻ VN đang phát sốt vì xu hướng "kiếm tiền trực tuyến", đặc biệt là các loại hình liên quan đến dịch vụ quảng cáo online. Nhưng trước khi tham gia hãy cảnh giác với những "mời chào" hấp dẫn.


Kỳ II: Dân mạng trẻ phát sốt vì "kiếm tiền trực tuyến""Kiếm tiền trực tuyến" là gì ?Đó là khi vào nhiều website, diễn đàn, bạn đọc thấy dòng link: "click vào đây để ủng hộ website", hoặc tại các website cá nhân, trang âm nhạc, thư viện ảnh miễn phí... có rất nhiều banner và các hình ảnh lạ mắt xuất hiện trên màn hình. Một vài diễn đàn khác thì có các từ khoá cụ thể được hiển thị khác màu trên nội dung - mà mỗi lần bạn click vào banner, link hoặc từ khoá đó, bạn sẽ được tự động liên kết đến một trang có nội dung quảng cáo...Khi khác lại là những email spam gửi đến hòm thư của bạn với những tiêu đề đầy "hấp dẫn": "Bạn chỉ việc đọc mail để nhận 500 USD/tháng!"; "Thuốc tăng lực hiệu quả tức thì!"; "Ảnh khoả thân của diễn viên nổi tiếng".... và đằng sau bao giờ cũng mời gọi bạn click vào link hoặc banner để xem chi tiết. Nội dung - tất nhiên toàn là quảng cáo, chẳng ăn nhập gì với cái title giật gân. Một vài dạng "kiếm tiền" không còn mấy phổ biến nữa là kiểu website " www.es...com" mời người dùng tải về một phần mềm, khi mở lên sẽ có hình con cá đang chuyển động ở góc màn hình, và việc bạn cần làm là cứ sau 5 giây thì click vào con cá một lần cho nó bơi không ngừng. Khoảng vài trăm lần click như vậy, bạn được 1 USD trong tài khoản mà bạn lập tại " www.es....com"...Tất cả những thứ kể trên, cùng với một vài hình thức tương tự như thế đều là biểu hiện của các kiểu kiếm tiền qua mạng nhờ vào dịch vụ quảng cáo online.Online Money Maker - tạm dịch là "Kiếm tiền trực tuyến", "kiếm tiền qua mạng" hay "kiếm tiền online" - từ một hai năm nay đang dần trở thành một "cơn sốt" của các cư dân mạng Việt Nam ở lứa tuổi trẻ, rỗi rãi và... ít hiểu biết. Thực ra "kiếm tiền trực tuyến" có nghĩa rất rộng: luyện items trong GameOnline (vũ khí, nhân vật chơi...) để bán, buôn bán địa chỉ email, thiết kế web từ xa, làm đại lý quảng cáo qua mạng... và nhiều hình thức khác đều có thể coi là kiếm tiền trực tuyến hay kiếm tiền qua mạng. Tuy nhiên, bài viết này chỉ đề cập đến xu hướng kiếm tiền thông qua các dịch vụ quảng cáo online. Cụm từ "kiếm tiền trực tuyến", vì thế sẽ được sử dụng trong bài theo nghĩa nhỏ hẹp này. "Sốt" từ "newbie" tới "đẳng cấp pro"...Duy - hiện đang là sinh viên một trường Cao Đẳng tại Quảng Ngãi nói rằng cậu đã tìm hiểu về "kiếm tiền trực tuyến" từ khoảng một năm trở lại đây và bắt đầu có thu nhập từ những công việc trên mạng. "Có tháng em kiếm được hơn 500 USD từ Internet với các hình thức kiếm tiền trên mạng như HYIP, SURF và các hình thức khác. Chưa thấm vào đâu so với kiếm tiền từ Google Adsense - một loại hình dành cho dân chuyên nghiệp." Duy nói, kiếm tiền trực tuyến xuất hiện tại Việt Nam từ khi nào cậu không rõ, nhưng nó chỉ thực sự rộ lên trong khoảng hơn một năm nay. "Bạn em, có người là sinh viên, có người còn đang học cấp 3, từ dân "amateur" đến mấy ông làm IT lâu năm ai cũng tham gia hết"! "Thời kỳ đầu em chỉ chơi PTR (paid to read mail) - đọc các email quảng cáo thuê. Đó là khi công ty A muốn quảng bá sản phẩm, dịch vụ... của mình, bỏ tiền ra mua quảng cáo ở các website PTR, các site này gửi mail quảng cáo cho người dùng và khuyến khích họ bằng cách mỗi lần đọc mail quảng cáo, người dùng sẽ được chia % tiền thuê quảng cáo của công ty A. Mỗi ngày đọc mail như thế, nếu biết cách chơi cũng kiếm được vài USD". Sau khi có được vốn và tìm hiểu thêm, Duy chuyển qua chơi các hình thức khác, HYIP, SURF, OFFER... "HYIP - được hiểu là một hình thức đầu tư siêu lợi nhuận, giống như một dạng game" - Duy giải thích - "có những website được lập nên trong một thời gian ngắn kho ảng vài ngày, cao lắm thì chỉ khoảng 1 tháng, mọi người đều có quyền đăng ký tham gia chơi và Deposit (gửi tiền) vào đó. Khi tham gia người chơi phải chấp nhận rủi ro luôn thường trực. Được tiền hay không là nhờ vào khả năng và quan trọng hơn, nhờ vào sự may mắn của bạn.Tiền của những nguời chơi sẽ được tăng lên sau 24h tùy thuộc vào Plan (mức độ tiền gửi). Tiền gửi (deposit) càng nhiều thì lãi suất (profit) càng lớn. Bạn cũng có thể kiếm được tiền hoa hồng nếu bạn lôi kéo được nhiều người tham gia. Duy nhún vai: "Tuy nhiên, anh cũng có thể mất trắng nếu admin của site đó scam (lừa đảo). Mà thường thì... nhắc đến HYIP là nhắc đến scam!".Một dạng khác, ít yếu tố may rủi hơn là Surf - nôm na là lướt web thuê. Bạn phải mở tài khoản và đóng tiền vào đó, trong thời gian này hàng ngày bạn phải lướt web thuê theo số lượng nhất định và tiền trong các tài khoản sẽ tăng lên. Tiền gửi ban đầu càng nhiều thì công lướt web thuê càng cao."Tương tự như HYIP - Surf đa phần là Scam nhưng thời gian kéo dài lâu hơn, có khi lên tới cả năm và mức lãi suất cũng thấp hơn HYIP." - Duy nhận xét. Ngoài các hình thức trên. "Dân "pro" (chuyên nghiệp) thì chơi affialite, adbrtie, Google Adsense hay forex...!".Những người có hiểu biết chút ít nhưng chưa đủ "đẳng cấp pro" thì thường kiếm tiền bằng cách ăn hoa hồng trong tiếp thị trung gian (Affiliate programs)! Mỗi lần có một người đăng ký thành viên một website nào đó từ lời mời của bạn, hoặc bạn "mồi chài" được một người mua hàng trên các site thương mại điện tử, bạn sẽ được trả tiền hoa hồng vài % từ trang web cung cấp dịch vụ, bán hàng đó. Có thật dễ dàng?Trong số các loại hình kiếm tiền qua mạng, tùy vào khả năng của từng người nhưng chơi có kế hoạch và chiến lược nhất thì Google Adsense là hình thức phổ biến hơn cả. Các công ty thuê quảng cáo tại Google, tập đoàn này sau đó bán lại nhu cầu quảng cáo cho các trang web khác làm đại lý cho mình. Hình thức này chỉ dành cho các webmaster, nghĩa là bạn phải có quyền quản trị trang web. Sau khi đăng ký với Google, bạn sẽ được họ cung cấp cho các đường link ẩn dưới các từ khoá hoặc các banner, trang popup... và đặt nó lên site của bạn. Sau đó theo thoả thuận với Google, với mỗi lượt click của người dùng, bạn sẽ được Google chia phần trăm lợi tức quảng cáo. Cái gọi là "Forex" thì là một dạng tương tự kinh doanh tiền tệ, khi bạn đăng ký account với nhà cung cấp dịch vụ, họ sẽ đưa cho bạn 12 cặp tiền tệ phổ biến như: đô la Mỹ, Yên Nhật; Euro, Nhân dân tệ, Đô la Úc, Rup... Bạn sẽ dùng một loại tiền trên mạng là eGold, hoặc Bank Transfer ..đầu cơ vào một loại tiền tệ, sau một khoảng thời gian sẽ bán ra để ăn chênh lệch nếu loại tiền tệ bạn mua vào lên giá (nếu giá bạn mua vào thấp hơn giá bán), hoặc giảm giá (nếu giá khi bạn mua vào cao hơn giá thị trường).Chỉ là trò lừa đảo Nhưng có thật là tất cả các loại hình kiếm tiền qua mạng đều thật sự dễ dàng như nhiều người vẫn nói?"Đa phần trong số đó là scam! (lừa đảo)" - Nguyễn Tiến Long - một webmaster từng "vỡ mộng" với kiếm tiền online chua chát - "Kiếm tiền mà dễ dàng như người ta dụ mình "click để có cả ngàn USD/Tháng", thì dân mạng chắc thành tỉ phú hết rồi!." Thực tế các trang thuê người dùng đọc mail quảng cáo đa phần là lừa đảo. Sau vài tháng đọc mail, sắp đến thời hạn bạn nhận tiền thì nó biến mất. Trắng trợn hơn nữa thì họ đưa ra một lý do chẳng mấy thuyết phục, và nói rằng bạn không đủ điều kiện để được thanh toán. Bạn sẽ mua vé máy bay sang nước ngoài để đòi vài trăm USD? "Ngay cả khi tham gia đọc thuê cho các trang uy tín, mọi chuyện cũng không đơn giản, họ chỉ thanh toán khi số tiền đọc mail hoặc lướt web thuê của anh tới một mức nào đó, chẳng hạn trên 126 USD... Với chừng đó, anh phải mất hàng tháng để đọc mail và click. Có đến quá nửa bỏ cuộc khi chưa đủ mức, tất nhiên là đồng nghĩa chẳng được đồng nào cả!". Chơi HYIP thì khỏi phải nói, hơn 90% là lừa đảo và chỉ tồn tại được vài ngày. Forex lại là hình thức yêu cầu quá nhiều chi phí bỏ ra, đồng thời cần có kiến thức ở tầm chuyên gia, biết phân tích thị trường tiền tệ, dự đoán biến động... Dân "amateur" mà nhảy vào chỉ có ngày sạt nghiệp.Chưa kể, một số dân mạng Việt Nam láu cá còn gửi email hàng loạt hoặc nhắn message qua YM mời mọi người tham gia đăng ký account đọc quảng cáo thuê trên mạng với những khoản tiền hấp dẫn có thể kiếm được. Chỉ cần bấm vào một đường link để đăng ký, rất đơn giản và đúng thủ tục của nhà cung cấp. Nhưng nếu để ý, sẽ dễ nhận thấy bản thân đường link đó đã chứa các mã số cá nhân của kẻ mời bạn đăng ký, hay nói cách khác, nếu đăng ký, bạn sẽ trở thành một "đại lý cấp dưới" hoặc một khách hàng mà kẻ láu cá đã giới thiệu sẽ được trả phí. Ngoài ra, công sức ngồi đọc quảng cáo của bạn sẽ được tính cho kẻ giới thiệu, còn bạn thì chẳng được gì.Đáng ngại hơn cả, hiện tượng "kiếm tiền trực tuyến" trong cư dân mạng đang tạo nên nhiều tác động tiêu cực và các xu hướng xấu trong cộng đồng mạng Việt Nam, đặc biệt là ở lứa tuổi trẻ, nhiều thời gian rảnh rỗi và thiếu hiểu biết...Những thủ đoạn kiếm tiền online (phần 3)

Nhiều người xem Internet là thế giới của những trò đùa ảo và cả nhiều cuộc tình ảo… Nhưng với không ít người, Internet đang là miếng mồi béo bở để họ dựng lên những cạm bẫy thật để lừa đảo…


Kỳ III: "Kiếm chác online" bằng những chiêu lừa mới Lợi dụng lòng trắc ẩn Những cú lừa tình, tiền mà nạn nhân ôm hận suốt đời bởi “thiệt hại” quá lớn đã không ít lần được cảnh báo, nhưng với những kiểu lừa “tích tiểu thành đại”, không đủ để pháp luật trị tội nếu bại lộ xem ra đang có chiều hướng gia tăng với nhiều biến tướng!Dân mạng có thể chát chít lừa dối nhau thoải mái nhưng hoàn toàn vô hại vì đó chỉ là những cuộc chuyện trò ảo và đôi khi những trò đùa ấy còn mang lại những chuỗi cười bất tận. Đối với họ, nâng mình lên thành Việt kiều, tiến sĩ hay con nhà giàu sở hữu chiếc xe Mercedes cũng chỉ là một trò vui trong chốc lát. Nhưng ngày qua ngày không ít kẻ nhận ra đó là một môi trường để thực hiện lừa đảo khá lý tưởng! Trên forum chuyên dành cho những người làm công tác xã hội luôn xuất hiện những mẩu tin về những con người đáng thương cần giúp đỡ khắp mọi nơi. Một ngày đầu tháng 12/2005, các thành viên nhận được lời kêu gọi giúp đỡ một cô bé 12 tuổi cha mẹ mất từ khi mới lọt lòng phải ở với cô chú nhưng lại mắc bệnh tim bẩm sinh! Nếu kiếm không ra 20 triệu đồng để mổ trong vòng 2 tháng nữa, Hương Thuỷ (tên cô bé đáng thương) sẽ qua đời.Câu chuyện được viết quá thương tâm mà một người cứng rắn cũng phải mủi lòng xót thương. Các thành viên kêu gọi khắp nơi và tự mình quyên góp được 21 triệu đồng gửi đến cho Thuỷ tận Lào Cai xa xôi. Mọi người vui mừng vì 3 tháng sau Thuỷ lên tiếng cảm ơn tất cả và thông báo em đã hồi phục sau ca mổ và sắp trở lại trường học.Những thắc mắc về lời lẽ quá chỉn chu, mùi mẫn của một cô bé 12 tuổi, về địa chỉ quyên tiền không rõ ràng và cả số tài khoản VCB nhanh chóng bị bỏ qua vì lòng hảo tâm. Nhưng đến đầu tháng 5, không ít người hụt hẫng khi quản trị trang web này lần ra địa chỉ của Thuỷ và biết đích xác cô bé này đã 22 tuổi, hiện đang chung sống với một người hơn cô 20 tuổi đã có gia đình ngay tại Hà Nội, hàng ngày rong chơi không biết làm gì nên đã nghĩ ra trò lừa trên!Năng nhặt chặt bị, quyên quỹ... xài riêngNếu có một CLB với nhiều trò thú vị tập hợp đủ nam thanh nữ tú mà phí gia nhập chỉ cần 50.000đ để “chủ nhiệm CLB thuê mướn địa điểm sinh hoạt, nước uống khi họp mặt, in thẻ thành viên…” thì bạn có từ chối? Có lẽ hơi khó, nhất là đối với những người có nhu cầu giao lưu lớn nhưng lại ít có dịp giao tiếp. Người viết cũng đã từng nhận được mail mời tham gia CLB “Vòng tay ấm áp” với phí gia nhập 60.000đ sinh hoạt mỗi chiều thứ sáu. Lệ phí được chuyển vào một tài khoản ngân hàng và chủ nhiệm CLB với cái tên Nguyễn Hải Vân thông báo “chỉ cần có đủ 10 hội viên nam nữ, chúng tôi sẽ tổ chức họp mặt và sẽ có quà đặc biệt cho những hội viên gia nhập sớm nhất (dĩ nhiên có cả lệ phí- NV)”. Hai tháng trời kể từ ngày đóng lệ phí các hội viên cứ bị hẹn đi hẹn lại với trăm ngàn lý do chính đáng!Mãi đến tháng thứ 3, nhiều người mới ngã ngửa khi Hải Vân biến mất và mọi địa chỉ liên lạc, số điện thoại đều “ngoài vùng phủ sóng”. Chỉ cần 20 người vào bẫy, vị chủ nhiệm kia cũng bỏ túi cả triệu bạc mà chẳng tốn bao nhiêu, quá lắm là vài chục ngàn vào Internet quảng cáo CLB kêu gọi góp tiền.Hiện nay trên nhiều trang web vẫn còn những CLB kiểu trên, có vị chủ nhiệm còn cao tay hơn khi tổ chức họp mặt hẳn hoi kể cả tổ chức đi chơi xa rồi cho đến khi quỹ lên đến con số vài triệu thì cao chạy xa bay hoặc lặn mất với lý do “thâm hụt quá nhiều” hay “phải chuyển công tác về vùng xa, tôi sẽ quyết toán và thanh toán với các bạn sau”!? Đó là chưa kể một số hội viên còn “vướng” sâu hơn với vị chủ nhiệm về cả tình lẫn tiền vì quá tin vào những lời ngọt như đường của “ông mai” tốt bụng. Những ngày qua, vào Internet tôi nhận ra những địa chỉ quen của một CLB kết bạn đang mời gọi hội viên. Qua điện thoại không khó để nhận ngay ra giọng nói của Hải Vân sau hai tháng biệt tích giang hồ, nay tái xuất với chiêu cũ và đã có người mắc bẫy! Chẳng ai đi kiện để lấy lại vài chục ngàn đồng, và đó là lý do chính để những kẻ như Vân tiếp tục giăng bẫy."Bạn muốn tự học qua mạng với những giáo trình, tài liệu của những trường ĐH nổi tiếng thế giới như Harvard, MIT, Oxford…? Không khó! Bạn chỉ cần đăng ký qua mạng và trả một số tiền nhỏ 50 USD/năm vào tài khoản, bạn sẽ được gửi tài liệu đến tận nhà"... Tin vào những dòng quảng cáo trên, có người đã đăng ký và trả tiền để nhận những tài liệu mà chỉ cần lên mạng bạn sẽ được tải về miễn phí."Còn thi cử hay kiểm tra bạn làm bài test, gửi đến email trên quảng cáo và đều nhận được thông báo đạt yêu cầu ngay ngày hôm sau, thi cũng vậy", nhưng bạn phải đóng thêm... 30 USD lệ phí để cuối cùng nhận ra rằng mình bị lừa. Đó là bởi những trường ĐH danh tiếng trên không hề có kiểu học, thi như vậy và toàn bộ đều bị “mượn đầu heo nấu cháo” với dòng chữ “Trường ĐH Hoa Kỳ chào đón và chúc mừng tân sinh viên gia nhập mái trường của chúng tôi”! Tra cứu mãi mới biết đây là một ngôi trường ảo, lừa khắp thế giới chứ không riêng gì Việt Nam. Chưa hiểu trường “ảo” này lừa được bao nhiêu người, nhưng trong vai một nạn nhân và kêu than lên diễn đàn, người viết cũng đã nhận được 4-5 lời đồng cảm cùng cảnh ngộ khác!

Xác Định Thị Trường Mục Tiêu Trên Internet

Việc xác định KH trực tuyến của bạn là ai? tầng lớp thượng lưu? trung lưu? trí thức? hay công nhân? Họ thường truy cập vào trang web nào? đó là một trong những bước rất quan trọng để thành công khi kinh doanh trên Internet.



Không phải bất kỳ khách hàng trực tuyến nào cũng có nhu cầu và muốn mua sản phẩm của bạn. Nếu như bạn thực sự muốn thành công khi kinh doanh trên Internet, đã đến lúc bạn cần phải quan tâm đến điều này... Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn cách thức xác định thị trường mục tiêu, cách thức tiếp cận để thu hút được nhiều khách hàng nhất và điều quan trọng là sẽ giúp bạn tiết kiệm hàng nghìn đô la cho chi phí quảng cáo.

1. Tiến hành các cuộc điều tra qua khách hàng quen thuộc.

Con đường nhanh nhất và tiết kiệm nhất giúp bạn xác định được chính xác thị trường mục tiêu và nhu cầu của khách hàng là mở một cuộc điều tra, thăm dò khách hàng hiện tại của bạn.

Với một phiếu điều tra ngắn và đơn giản, bạn có thể tập hợp được tất cả những thông tin cần thiết về thói quen tiêu dùng của các khách hàng đang mua và sử dụng sản phẩm, dịch vụ của bạn. Điều đó không chỉ giúp bạn có được cái nhìn chính xác nhất về thị trường mục tiêu mà còn có thể nhận ra được điểm mạnh và điểm yếu của mình để từ đó đưa ra được một chiến lược marketing phù hợp hơn.

Để cuộc điều tra đạt hiệu quả cao nhất, bạn cần phải ghi nhớ một số lưu ý sau:

Hãy tạo ra những phương án trả lời đơn giản bằng cách đưa ra các lựa chọn, khi đó khách hàng chỉ cần nhấn chuột vào ô lựa chọn mà không cần phải trả lời chi tiết.

Chắc chắn rằng cuộc điều tra sẽ được thông báo trên một trang web.

Cung cấp một chương trình miễn phí cho tất cả những người trả lời phiếu điều tra của bạn. Ví dụ như một bản tin miễn phí trong một cuốn ebook, chắc chắn số lượng trả lời phiếu điều tra sẽ tăng lên gấp 10 lần.

2. Câu lạc bộ trực tuyến, phòng “chat”, và các diễn đàn.

Hãy bắt đầu công việc nghiên cứu thị trường bằng cách tham gia vào các phòng “tán gẫu”, các diễn đàn, và các câu lạc bộ trực tuyến có liên quan đến sản phẩm và dịch vụ của bạn. Bằng việc quan sát, theo dõi các cuộc thảo luận, đặt một số ít các câu hỏi chiến lược sẽ nhanh chóng giúp bạn nghiên cứu được động cơ và thói quen của khách hàng, xu hướng chung nổi bật mà nó sẽ giúp bạn xác định được thị trường mục tiêu cho sản phẩm của mình.

Tuy nhiên, bạn không nên tiếp thị sản phẩm của mình ở đó và hy vọng rằng họ sẽ mua hàng của bạn. Bạn sẽ không chỉ không bán được hàng mà còn không có được những thông tin quan trọng mà bạn cần. Hãy quan sát và lắng nghe những gì họ nói.

3. Tạp chí điện tử

Ngày nay, có đến hàng nghìn các tạp chí điện tử được xuất bản trên Internet liên quan đến mọi chủ đề, mọi lĩnh vực. Rất đơn giản, bạn có thể tiếp cận với thị trường mục tiêu bằng việc đặt những quảng cáo ngắn vào một số ít các tạp chí điện tử khi mà bạn đã biết độc giả của những tạp chí đó là ai?

Dưới đây là các trang web ở đó bạn sẽ có được danh sách của các tạp chí điện tử và bản tin mà bạn có thể tham khảo để phục vụ cho việc xác định thị trường mục tiêu của bạn:
http://www.liszt.com
http://www.ezine-universe.com
http://www.paml.net
http://www.free-ezine-advertising.com

4. Phân tích cạnh tranh:

Bất kỳ ai khi kinh doanh trên mạng Internet cũng đều phải đối mặt với các cuộc cạnh tranh, và nếu như bạn là một thương nhân mới gia nhập vào thị trường và đang cố gắng xác định thị trường mục tiêu, thì các đối thủ cạnh tranh đã từng thành công sẽ là những người bạn tốt nhất. Hãy xác định:
Từ khoá nào khách hàng thường dùng để tìm thấy họ trên các công cụ tìm kiếm?.

Họ thường quảng cáo trên các trang web nào?.

Trang web của họ nhằm phục vụ cho đối tượng nào?.

Nếu cách thức tiếp cận đó giúp họ thành công, tại sao bạn lại không thể thành công như họ?.

5. Theo dõi khách hàng truy cập.

Bằng việc theo dõi khách hàng truy cập và tìm hiểu xem họ thường truy cập vào các trang web nào, bạn sẽ trả lời được câu hỏi: cần đặt quảng cáo ở đâu để có thể tiếp cận và thu hút được nhiều nhất các khách hàng tiềm năng chiến lược.

Trong kinh doanh truyền thống, để xác định được thị trường mục tiêu cho sản phẩm của mình đòi hỏi các thương nhân phải tiến hành điều tra, thăm dò hàng tháng và phải tiêu tốn hàng nghìn đô la cho chi phí quảng cáo. Ngày nay, Internet nhanh chóng giúp bạn xác định và định vị được thị trường với chi phí thấp nhất nhưng hiệu quả cao nhất.

Theo Vnexpress

Techcombank: Chính thức cung cấp Cổng Thanh Toán Điện Tử

Ngày 10 tháng 08 năm 2007 Techcombank đã chính thức khai trương Cổng thanh toán điện tử (Payment Gateway) mang tên F@st VietPay.



Đây là giải pháp được Techcombank triển khai trên cơ sở hợp tác với Asia Pay, một đối tác chuyên cung cấp các giải pháp thanh toán qua mạng internet có trụ sở tại Hồng Kông.


Cổng thanh toán điện tử được hiểu là giải pháp thanh toán của Techcombank cung cấp cho các website bán hàng trực tuyến, cho phép các trang web này chấp nhận các giao dịch thanh toán của chủ thẻ và/hoặc các đơn vị chấp nhận thẻ. Với giải pháp này, các khách hàng chỉ cần có thẻ quốc tế mang thương hiệu VISA, Master,… là có thể thực hiện các giao dịch mua sắm trực tuyến trên các trang web bán hàng qua mạng trong nước và quốc tế giống như phương thức mua hàng qua các trang web thương mại điện tử nổi tiếng trên thế giới như Amazon.com, Alibaba.com, Ebay.com...

Theo ông Michael Johnson, Giám đốc Marketing Techcombank, hiện nay, nhu cầu mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng Việt Nam ngày càng lớn, đáp ứng nhu cầu này, số lượng các website bán hàng trực tuyến cũng tăng đáng kể trong vài năm trở lại đây. Tuy vậy, hầu hết các website bán hàng qua mạng mới chỉ cho phép người mua hàng thanh toán bằng các phương thức đơn giản như: chuyền tiền qua ATM, trả trực tiếp bằng tiền mặt, chuyển tiền qua các dịch vụ chuyển tiền quốc tế,… Các phương thức thanh toán này chưa thể đáp ứng được nhu cầu của người mua hàng qua mạng về sự an toàn và tiện lợi. Cổng thanh toán điện tử F@st VietPay, với vai trò là cầu nối giữa người mua và người bán sẽ cung cấp thêm cho người bán là các website bán hàng qua mạng một phương thức thanh toán tiên tiến, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, và người mua là chủ thẻ sẽ có thêm một phương thức thanh toán dễ dàng, thuận tiện và nhanh chóng hơn rất nhiều.

“Việc cung cấp Cổng thanh toán điện tử cho thấy nỗ lực của Techcombank nhằm đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ hiện đại và tiện ích cho khách hàng, mặt khác thể hiện mong muốn và nỗ lực đóng góp vào sự phát triển của thương mại điện tử Việt Nam”. Ông Michael phát biểu thêm.

Trong những năm qua, Techcombank luôn có những bước đi thực tế mạnh mẽ để góp phần phát triển thương mại điện tử Việt Nam. Techcombank là một trong những ngân hàng tiên phong trong việc phát triển các sản phẩm dịch vụ trên nền công nghệ hiện đại, các giải pháp thanh toán trực tuyến cho khách hàng như: thẻ VISA, Homebanking, Telebanking, Mobile banking (F@stMobiPay) và gần đây nhất là Internet banking (F@st i-bank). Những nỗ lực của Techcombank đã được nhiều khách hàng ghi nhận và đã được Vụ TMĐT đánh giá cao vì những đóng góp này. Techcombank cũng là ngân hàng đầu tiên và duy nhất được Hiệp Hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) lựa chọn là thành viên Ban chấp hành chính thức của Hiệp hội.

Cũng trong buổi lễ ra mắt Cổng thanh toán điện tử, Techcombank công bố sự hợp tác quan trọng và mang tính chiến lược giữa Techcombank và Siêu thị trực tuyến 123mua! (www.123mua.com.vn). Với sự hợp tác này, 123mua! sẽ là đối tác đầu tiên triển khai giải pháp Cổng thanh toán điện tử của Techcombank trên trang www.123mua.com.vn.

Theo Techcombank

E-Metrics - nhân tố sống còn trong thương mại điện tử

Đã có rất nhiều lý do được đưa ra để giải thích sự suy sụp của 1 số công ty kinh doanh trực tuyến mô phỏng theo những phân tích tài chính của các mô hình kinh tế, hay theo kiểu đầu tư càng mạo hiểm thì lợi nhuận càng cao.


Kiểu giải thích chung chung, cũ rích như vậy của các nhà kinh tế không chỉ ra được nguyên nhân và tác động thực sự của vấn đề. Trong khi trên thực tế, những dự án kinh doanh quá đơn sơ mới chính là nguyên nhân gây nên sự thất bại của các công ty đầy tham vọng.Một hệ thống phân tích dữ liệu trên mạng là một yếu tố không thể thiếu đối với bất cứ một doanh nghiệp thông tin nào. Nhiều công ty dotcom thành công như Yahoo, Amazon và Ebay, đang tiếp tục kinh doanh, vẫn với phương châm "Cứ đầu tư, sẽ có khách hàng" của họ. Cũng làm theo chiến lược "Cứ đầu tư..." tương tự, tạI sao một số công ty lại thất bại, còn một số khác thì thành công? Về thực chất, các công ty đã thất bại bởi họ không phát triển một hệ thống đo lường mới, theo bản chất cốt lõi của thương mại điện tử, và nó khác một cách căn bản so với kiểu phân tích dữ liệu tài chính truyền thống. Chỉ có rất ít các công ty hiểu rằng Internet không chỉ đơn giản là một "kênh" kinh doanh; mà nó phải được coi là một họat động kinh doanh độc lập. Và những lĩnh vực kinh doanh không truyền thống như vậy đòi hỏi phải được quản lý bằng một hệ thống đo lường hoàn tòan mới. Trong bài viết này, tôi không định đưa ra các công cụ đo lường cho ngành thương mại điện tử, tôi cũng không đưa ra "bí quyết" cho cuộc cạnh tranh trên Internet. Tôi sẽ trình bày về một nền tảng cơ sở để tạo ra phương pháp đo lường, phân tích, đánh giá phù hợp nhất đối vớI các hoạt động kinh doanh trên mạng, và làm thế nào để thể hiện các phương pháp đó dưới dạng dễ hiểu, dễ thựchành nhất. Và sau chót, nền tảng này sẽ mang lại cho bạn những lợi ích sau: + Phát hiện nhanh chóng những vấn đề trên trang web. + Hiểu được các nhân tố cơ bản trên site. + Hiểu mối quan hệ giữa đơn vị sản phẩm, doanh thu và lợi nhuận, đồng thời hiểu cách để điều chuyển các nhân tố này. + Phương pháp đo lường truyền thống và trên mạng Phương pháp đo lường truyền thống theo lỗ và lãi (P&L) không thể tạo nên được một bức tranh hoàn chỉnh về hành vi của khách hàng. Những phương pháp đánh giá như vậy chỉ dựa vào các giao dịch đã thực hiện, được tổng hợp tại thời điểm diễn ra mua bán. Ngược lại, các phương pháp cho thương mại điện tử (từ đây sẽ được gọi là e-metrics - hay các phương pháp đo lường, phân tích các dữ liệu thu thập từ mạng) tạo ra cơ hội để đánh giá tất cả những gì liên quan đến hành vi của khách hàng trước khi họ chính thức mua hàng. Sự hấp dẫn của các dữ liệu trên mạng chính là nó có thể lưu giữ được từng động tác click chuột, từng hình ảnh khách hàng đã xem. Các dữ liệu này sẽ tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh về các hành vi dẫn đến việc mua hàng của khách hàng (hay quan trọng hơn, những hành vi dẫn đến việc không mua hàng). Trong thời kỳ bùng nổ dotcom, một vài từ lóng của emetrics đã trở thành thuật ngữ phân tích: page leakage (trang làm "mất khách"), sự phản đối, tính hấp dẫn, tốc độ, sự hủy bỏ giỏ hàng, độ hội tụ,... và có lẽ điều hấp dẫn nhất trong các nhân tố trên chính là hướng phân tích (khả năng tìm thấy "yếu tố quyết định dẫn đến việc mua hàng"). Những khái niệm trên rất thú vị và mới mẻ, nhưng chúng nặng về tính lý thuyết hàn lâm bởi chúng dựa trên một chuỗi các câu chuyện giả tưởng. Để có một quyết định khả thi, phương pháp hiệu quả nhất là trung gian giữa phương pháp đo đếm P&L (vốn khá mơ hồ và khó tích hợp hòan chỉnh) và phương pháp hàn lâm mà tôi đã miêu tả (phương pháp này khá thú vị nhưng không phải dễ kích hoạt). Holy Grail là một tập hợp các e-metrics có thể kích hoạt và định lượng, trong đó ghi nhận các kiểu hành vi và liên kết chúng với các chỉ số kinh doanh quan trọng như số hàng tiêu thụ, doanh thu và lợi nhuận. Trên lý tưởng, các dữ liệu như vậy phải được phục vụ cho cả việc quản lý và nghiên cứu phát triển, và việc ứng dụng công cụ báo cáo linh hoạt phải phù hợp với cả các những chuyên viên kỹ thuật lẫn những người không chuyên. Việc quản lý tòan bộ quá trình này đòi hỏi phải là một nhân viên thực sự giàu kinh nghiệm, có tầm nhìn chiến lược sâu rộng. Điểm khởi đầu Những câu hỏi mà chúng ta muốn biết về khách hàng trên web rất đa dạng. Bước đầu tiên là phải xây dựng một hệ thống công cụ phân tích hòan chỉnh, trong đó liệt kê các dạng phân tích cần tiến hành. Mỗi dạng phân tích phảI riêng biệt, hầu hết các câu hỏi sẽ được hình thành trong ma trận two-by-two (xem hình 1). Tôi sẽ giải thích mỗI phần của ma trận một cách chi tiết hơn. E-metrics về chất lượng Những phương pháp đo lường lưu lượng (trên mạng) cơ bản này thường được thực hiện trong ngắn hạn và đòi hỏI độ tích hợp thấp. Chúng chỉ dựa vào các dữ liệu về hành vi trên mạng và tập hợp vào một hệ thống dữ liệu có sẵn. Yêu cầu tối thiểu là các dữ liệu này phải được tập hợp theo tuần, nhưng khi cần thiết cũng phải thu thập được ngay khi dự án kinh doanh cần đến. Những ví dụ cụ thể là: Lưu lượng (traffic) giữa các trang và từng nhóm trang: những dữ liệu sơ bộ về lưu lượng luân chuyển giữa các trang web được biểu hiện bằng số clicks, số lượt truy nhập, số người truy nhập... Tỷ lệ % để mất khách hàng (Page leakage percentage): đây là tỷ lệ % số người truy cập đến một trang web và dừng lại tại đó, không tiếp tục xem sang các trang được link khác, trên tổng số người truy cập vào trang web đó. Từ tỷ lệ này, bạn có thể nhận biết được mức độ hấp dẫn, hiệu quả trong thiết kế website của mình, thay cho những nhận xét mang tính cảm nhận trước đây. Ngoài ra, mỗi lần có sự thay đổi trên website, việc so sánh tỷ lệ này sẽ giúp bạn đưa ra đánh giá thích hợp nhất. Click tiếp theo (next click): đây là một yếu tố quan trọng trong phân tích, đánh giá xem trang nào thường xuyên được xem tiếp từ một hay một nhóm trang web nhất định. (khi xem xét thông số này, bạn nên xét trong một nhóm nhỏ các trang, vì nhiều khi kết quả số trang được liệt kê phụ thuộc vào cách thiết kế web). Thiết kế web có ảnh hưởng rất lớn đến next click, đặc biệt khi ta tiến hành thu thập dữ liệu từ một trang chủ có chứa nhiều đường link. Quan trọng hơn, thông số này giúp bạn đo lường được một trong những vấn đề hóc búa nhất trong thiết kế Web: giá trị bất động sản của trang web. Click trước đó (Previous click): tương tự như Next click, việc lấy số liệu về previous click sẽ cho ta biết những trang web nào là đường dẫn thường xuyên nhất đến một trang web hay nhóm trang nhất định. Mô hình định hướng và giá trị bất động sản của một trang là những vấn đề cốt lõi trong phương pháp đo lường này. Những tên miền và URL ghi lại được sẽ rất có ích, đặc biệt khi trình bày dưới dạng minh họa cho một ảnh hưởng nào đó. Việc ghi lại các đo lường điện tử về chất lượng một cách tự động, đầy đủ và đều đặn rất quan trọng. I’t nhất, ngườI quản trị cũng nên duy trì những báo cáo e-metrics thường xuyên.
Trong phần tiếp theo này, chúng ta tiếp tục tìm hiểu khả năng đánh giá, đo lường điện tử hay còn gọi là emetrics, một điều cực kỳ quan trọng trong sự thành công của thương mại điện tử.


E-metrics theo dự án Mặc dù chỉ dựa vào dữ liệu điện tử, các cách đo lường này được xây dựng cho mục tiêu dài hạn hơn, dài hạn ở đây có nghĩa là những phân tích này nhằm vào mục đích phát triển những ứng dụng trên mạng, bằng việc đo lường những thay đổi kỹ thuật. Kiểu e-metrics này được tạo ra để thúc đẩy quá trình giao dịch trên mạng bằng cách đo lường các biến đổi từng giai đoạn, từng trường hợp cụ thể.Ví dụ, nếu một giám đốc dự án muốn cải thiện một phần của trang web, nhà tư vấn phân tích Web sẽ cùng với vị giám đốc dự án tạo ra một hệ thống đo lường xung quanh các trang đặc biệt và cần được cải tiến. Hệ thống này có thể bao gồm việc đo lường tần suất truy cập, - hoặc nếu nhóm trang web có tính hệ thống và theo một trình tự (chẳng hạn như quá trình đăng ký hay ứng dụng), các phương pháp đo lường có thể bao gồm những kết quả chi tiết kiểu bậc thang. Kiểu báo cáo này có giá trị rất quan trọng trong việc phân tích tác động của doanh thu hình phễu, hay tỷ lệ số khách hàng trong một giai đoạn này với số khách hàng trong một giai đoạn khác của một quá trình bán hàng. Chẳng hạn như nếu một giám đốc dự án muốn thu hút được nhiều khách hàng trên mạng để giảm cuộc gọi đến trung tâm dịch vụ khách hàng. Nhà tư vấn phân tích Web sẽ tạo ra một cách đo lường trọn gói để nhà quản lý dự án phải thực hiện để biết xem có bao nhiêu khách hàng đã sử dụng ứng dụng mới trên trang web của ông ta trên tổng số khách hàng đã liên hệ (cả qua web và điện thoại). Khi dự án hoàn thành và sự cải tiến trong kinh doanh được ghi vào sổ kế tóan, những dữ liệu này sẽ không cần phải ghi lại nữa, vì vậy đây được coi là phương pháp nhất thời. Tuy nhiên, trong khi kiểu e-metrics này có thể không cần thiết đối với mô hình kinh doanh đều đều, nó lại rất quan trọng đối với các dự án để chứng minh giá trị thật sự của dự án và giảm bớt tổng chi phí. Các e-metrics này về bản chất là các câu hỏi được đặt ra để tư vấn chi tiết cho các nhà kinh doanh, đặc biệt là trong các dự án. Khi đã biết được các câu hỏi, giám đốc dự án cần có các công cụ truy cập dữ liệu và báo cáo cần thiết để có thể lập các báo cáo theo từng mục tiêu sử dụng ngay khi cần thiết. Mặc dù các phương pháp đo lường này thường nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện các dự án kỹ thuật, các câu hỏI thường mang tính ngắn hạn, không còn giá trị khi dự án đã được thực hiện. Tuy nhiên, nếu sau quá trình thực thi, các đo lường này được đánh giá là cần thiết cho việc kinh doanh thì chúng sẽ được thực hiện đều đặn như là e-metrics cho chất lượng. E-metrics theo chiều sâu Đây là các e-metrics được áp dụng trong ngắn hạn và đòi hỏi nhiều công sức tích hợp. Chúng có tính tùy biến 100% và vì vậy là đây là một cách đo lường tốn nhiều thời gian nhất, bởi chúng được xây dựng nhằm đáp ứng rất nhiều các tra vấn khác nhau. Những tra vấn này có thể bao gồm các phân tích nguyên nhân gốc rễ, kiểm tra giả thiết, nghiên cứu khoảng cách an tòan, phân tích nhóm khách hàng, phân tích giỏ hàng, phân tích chuỗi và kết hợp, và còn nhiều ứng dụng khai thác dữ liệu khác. Thực hiện e-metrics theo chiều sâu không dễ dàng chút nào, vì ít nhất 3 lý do sau: Phải có sự tích hợp giữa nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau, và điều này trên thực tế là rất phức tạp. Việc thu thập dữ liệu rất phức tạp vì phương pháp này đòi hỏi phải có một số lượng lớn các loại dữ liệu để thực hiện theo các phân tích khác nhau. Phân tích thống kê thường là mục tiêu đầu tiên của phương pháp này, ... Ít có công ty nào khẳng định rằng các dữ liệu về e-metrics, tài chính, khách hàng và hỗ trợ khách hàng của mình được lưu trữ trong một hệ thống cơ sở dữ liệu duy nhất. Thông thường các cơ sở dữ liệu thường chạy trên nhiều hệ thống khác nhau, và việc thu thập được dữ liệu như ý muốn là rất phức tạp (chẳng hạn như phải lấy dữ liệu từ một cơ sở dữ liệu nào đó và kết hợp với các trường khoá để lọc dữ liệu nhiều lần cho đến khi có bản báo cáo cuối cùng) Chính vì vậy, e-metrics theo chiều sâu thường được sử dụng trong các dự án công nghệ. Bạn cần phải biết cân đối các yêu cầu sao cho kết quả phân tích đạt được hiệu quả cao trong một khung thời gian nhất định. E-metrics thường dẫn đến những thay đổi đáng kể trong kinh doanh bởi chúng có khả năng đo đếm được những nguyên nhân, ảnh hưởng vô hình mà trước đây đã bị bỏ qua. Một ví dụ dưới đây sẽ trình bày những cơ hội đặc biệt với các khách hàng của bạn bằng việc phát triển một bản báo cáo về số lần mua hàng của một sản phẩm hay số hàng dự trữ, trên số lần truy cập vào sản phẩm đó, và sau đó vẽ đồ thị kết quả: Lượt truy cập ít / lượt trao đổi thành công thấp: chứng tỏ sản phẩm ít được quan tâm hay khách hàng khó tìm thấy sản phẩm này trên site. Nếu bạn thấy cách trình bày sản phẩm và hướng dẫn mua hàng đã rất rõ ràng, dễ hiểu thì chứng tỏ sản phẩm này không được khách ưa chuộng. Lượt truy cập thấp/lượt trao đổi thành công cao: chứng tỏ khi khách hàng truy cập vào đây, họ đã biết chắc mình muốn mua gì. Cần xem xét để đưa những mặt hàng đó vào danh sách những sản phẩm best-sellers. Lượt truy cập cao/lượt trao đổi cao: chứng tỏ sản phẩm rất được ưa chuộng, bán chạy. Không cần phải chi thêm chi phía quảng cáo, khuyến mãi nào cho sản phẩm này nữa. Lượt truy cập cao/lượt chuyển đổi thấp: Cơ hội của bạn rất nhiều. Cần tìm biện pháp xúc tiến bán hàng, đưa ra mức giá cạnh tranh hơn, tăng cường khuyến mãi để thúc đẩy doanh số. Báo cáo tích hợp cao và tự động Kiểu e-metrics này thường được thực hiện trong dài hạn và cần có sự tích hợp cao. Chúng có xuất phát từ e-metrics theo chiều sâu và từ kết quả của các báo cáo tích hợp khá phức tạp, Để có được các dữ liệu báo cáo tự động và độ tích hợp cao đòi hỏi phải có sự nỗ lực của các nhà phân tích web, nhà quản lý kinh doanh và cơ sở hạ tầng IT cần thiết. Bởi những báo cáo dạng này tốn rất nhiều công sức tạo dựng được cơ sở dữ liệu phù hợp, nhằm mục tiêu trả lời được càng nhiều, càng nhanh các câu hỏi càng tốt. Như tôi đã nói ở trên, việc báo cáo dữ liệu nên được điều hành và phát triển cùng nhau, đồng thời các công cụ lấy dữ liệu phải thật linh hoạt để có thể phù hợp với cả các chuyên gia kỹ thuật lẫn những người không chuyên. Những công cụ thu thập dữ liệu linh hoạt như Excel Pivot Tables và quá trính phân tích thông tin trên mạng có thể cung cấp nhiều loại báo cáo có mức độ quan trọng khác nhau. Những công cụ này sẽ dễ dàng thu thập các báo cáo liên quan, để có tầm nhìn tổng quan trên một diện bao quat rộng, sau đó các dữ liệu phức tạp sẽ được tổng hợp trong một định dạng dễ hiểu về e-metrics chất lượng. Với những nền tảng cơ sở về phân tích điện tử như vậy, bạn đã có được một phương pháp để đo lường tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh, thông qua hành vi của khách hàng trên mạng. Bản năng tồn tại Một hệ thống nền tảng vững chắc về phân tích trên mạng sẽ tạo ra được các giải pháp phân tích chất lượng chính xác nhất đối với những vấn đề mà trước đây vẫn được coi là vô hình và không thể định lượng được, đó là đánh giá phân tích mức độ tích hợp và lưu lượng giao dịch trên mạng. Tuy nhiên, việc tìm tòi và xây dựng hệ thống nền tảng chỉ là bước đầu tiên. Duy trì quá trình đó thông qua việc quản lý định lượng theo mô hình đào tạo, uỷ quyền và chuyển giao mới là điều chủ chốt để tăng hiệu quả đánh giá. Khả năng đánh giá, đo lường điện tử hay còn gọi là emetrics là một điều cực kỳ quan trọng trong sự thành công của thương mại điện tử và nó quyết định sự thành bại của tất cả các công ty dotcom. Trong phần tiếp theo này, chúng ta tiếp tục tìm hiểu khả năng đánh giá, đo lường điện tử hay còn gọi là emetrics, một điều cực kỳ quan trọng trong sự thành công của thương mại điện tử.


E-metrics theo dự án Mặc dù chỉ dựa vào dữ liệu điện tử, các cách đo lường này được xây dựng cho mục tiêu dài hạn hơn, dài hạn ở đây có nghĩa là những phân tích này nhằm vào mục đích phát triển những ứng dụng trên mạng, bằng việc đo lường những thay đổi kỹ thuật. Kiểu e-metrics này được tạo ra để thúc đẩy quá trình giao dịch trên mạng bằng cách đo lường các biến đổi từng giai đoạn, từng trường hợp cụ thể.Ví dụ, nếu một giám đốc dự án muốn cải thiện một phần của trang web, nhà tư vấn phân tích Web sẽ cùng với vị giám đốc dự án tạo ra một hệ thống đo lường xung quanh các trang đặc biệt và cần được cải tiến. Hệ thống này có thể bao gồm việc đo lường tần suất truy cập, - hoặc nếu nhóm trang web có tính hệ thống và theo một trình tự (chẳng hạn như quá trình đăng ký hay ứng dụng), các phương pháp đo lường có thể bao gồm những kết quả chi tiết kiểu bậc thang. Kiểu báo cáo này có giá trị rất quan trọng trong việc phân tích tác động của doanh thu hình phễu, hay tỷ lệ số khách hàng trong một giai đoạn này với số khách hàng trong một giai đoạn khác của một quá trình bán hàng. Chẳng hạn như nếu một giám đốc dự án muốn thu hút được nhiều khách hàng trên mạng để giảm cuộc gọi đến trung tâm dịch vụ khách hàng. Nhà tư vấn phân tích Web sẽ tạo ra một cách đo lường trọn gói để nhà quản lý dự án phải thực hiện để biết xem có bao nhiêu khách hàng đã sử dụng ứng dụng mới trên trang web của ông ta trên tổng số khách hàng đã liên hệ (cả qua web và điện thoại). Khi dự án hoàn thành và sự cải tiến trong kinh doanh được ghi vào sổ kế tóan, những dữ liệu này sẽ không cần phải ghi lại nữa, vì vậy đây được coi là phương pháp nhất thời. Tuy nhiên, trong khi kiểu e-metrics này có thể không cần thiết đối với mô hình kinh doanh đều đều, nó lại rất quan trọng đối với các dự án để chứng minh giá trị thật sự của dự án và giảm bớt tổng chi phí. Các e-metrics này về bản chất là các câu hỏi được đặt ra để tư vấn chi tiết cho các nhà kinh doanh, đặc biệt là trong các dự án. Khi đã biết được các câu hỏi, giám đốc dự án cần có các công cụ truy cập dữ liệu và báo cáo cần thiết để có thể lập các báo cáo theo từng mục tiêu sử dụng ngay khi cần thiết. Mặc dù các phương pháp đo lường này thường nhằm hỗ trợ cho việc thực hiện các dự án kỹ thuật, các câu hỏI thường mang tính ngắn hạn, không còn giá trị khi dự án đã được thực hiện. Tuy nhiên, nếu sau quá trình thực thi, các đo lường này được đánh giá là cần thiết cho việc kinh doanh thì chúng sẽ được thực hiện đều đặn như là e-metrics cho chất lượng. E-metrics theo chiều sâu Đây là các e-metrics được áp dụng trong ngắn hạn và đòi hỏi nhiều công sức tích hợp. Chúng có tính tùy biến 100% và vì vậy là đây là một cách đo lường tốn nhiều thời gian nhất, bởi chúng được xây dựng nhằm đáp ứng rất nhiều các tra vấn khác nhau. Những tra vấn này có thể bao gồm các phân tích nguyên nhân gốc rễ, kiểm tra giả thiết, nghiên cứu khoảng cách an tòan, phân tích nhóm khách hàng, phân tích giỏ hàng, phân tích chuỗi và kết hợp, và còn nhiều ứng dụng khai thác dữ liệu khác. Thực hiện e-metrics theo chiều sâu không dễ dàng chút nào, vì ít nhất 3 lý do sau: Phải có sự tích hợp giữa nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau, và điều này trên thực tế là rất phức tạp. Việc thu thập dữ liệu rất phức tạp vì phương pháp này đòi hỏi phải có một số lượng lớn các loại dữ liệu để thực hiện theo các phân tích khác nhau. Phân tích thống kê thường là mục tiêu đầu tiên của phương pháp này, ... Ít có công ty nào khẳng định rằng các dữ liệu về e-metrics, tài chính, khách hàng và hỗ trợ khách hàng của mình được lưu trữ trong một hệ thống cơ sở dữ liệu duy nhất. Thông thường các cơ sở dữ liệu thường chạy trên nhiều hệ thống khác nhau, và việc thu thập được dữ liệu như ý muốn là rất phức tạp (chẳng hạn như phải lấy dữ liệu từ một cơ sở dữ liệu nào đó và kết hợp với các trường khoá để lọc dữ liệu nhiều lần cho đến khi có bản báo cáo cuối cùng) Chính vì vậy, e-metrics theo chiều sâu thường được sử dụng trong các dự án công nghệ. Bạn cần phải biết cân đối các yêu cầu sao cho kết quả phân tích đạt được hiệu quả cao trong một khung thời gian nhất định. E-metrics thường dẫn đến những thay đổi đáng kể trong kinh doanh bởi chúng có khả năng đo đếm được những nguyên nhân, ảnh hưởng vô hình mà trước đây đã bị bỏ qua. Một ví dụ dưới đây sẽ trình bày những cơ hội đặc biệt với các khách hàng của bạn bằng việc phát triển một bản báo cáo về số lần mua hàng của một sản phẩm hay số hàng dự trữ, trên số lần truy cập vào sản phẩm đó, và sau đó vẽ đồ thị kết quả: Lượt truy cập ít / lượt trao đổi thành công thấp: chứng tỏ sản phẩm ít được quan tâm hay khách hàng khó tìm thấy sản phẩm này trên site. Nếu bạn thấy cách trình bày sản phẩm và hướng dẫn mua hàng đã rất rõ ràng, dễ hiểu thì chứng tỏ sản phẩm này không được khách ưa chuộng. Lượt truy cập thấp/lượt trao đổi thành công cao: chứng tỏ khi khách hàng truy cập vào đây, họ đã biết chắc mình muốn mua gì. Cần xem xét để đưa những mặt hàng đó vào danh sách những sản phẩm best-sellers. Lượt truy cập cao/lượt trao đổi cao: chứng tỏ sản phẩm rất được ưa chuộng, bán chạy. Không cần phải chi thêm chi phía quảng cáo, khuyến mãi nào cho sản phẩm này nữa. Lượt truy cập cao/lượt chuyển đổi thấp: Cơ hội của bạn rất nhiều. Cần tìm biện pháp xúc tiến bán hàng, đưa ra mức giá cạnh tranh hơn, tăng cường khuyến mãi để thúc đẩy doanh số. Báo cáo tích hợp cao và tự động Kiểu e-metrics này thường được thực hiện trong dài hạn và cần có sự tích hợp cao. Chúng có xuất phát từ e-metrics theo chiều sâu và từ kết quả của các báo cáo tích hợp khá phức tạp, Để có được các dữ liệu báo cáo tự động và độ tích hợp cao đòi hỏi phải có sự nỗ lực của các nhà phân tích web, nhà quản lý kinh doanh và cơ sở hạ tầng IT cần thiết. Bởi những báo cáo dạng này tốn rất nhiều công sức tạo dựng được cơ sở dữ liệu phù hợp, nhằm mục tiêu trả lời được càng nhiều, càng nhanh các câu hỏi càng tốt. Như tôi đã nói ở trên, việc báo cáo dữ liệu nên được điều hành và phát triển cùng nhau, đồng thời các công cụ lấy dữ liệu phải thật linh hoạt để có thể phù hợp với cả các chuyên gia kỹ thuật lẫn những người không chuyên. Những công cụ thu thập dữ liệu linh hoạt như Excel Pivot Tables và quá trính phân tích thông tin trên mạng có thể cung cấp nhiều loại báo cáo có mức độ quan trọng khác nhau. Những công cụ này sẽ dễ dàng thu thập các báo cáo liên quan, để có tầm nhìn tổng quan trên một diện bao quat rộng, sau đó các dữ liệu phức tạp sẽ được tổng hợp trong một định dạng dễ hiểu về e-metrics chất lượng. Với những nền tảng cơ sở về phân tích điện tử như vậy, bạn đã có được một phương pháp để đo lường tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh, thông qua hành vi của khách hàng trên mạng. Bản năng tồn tại Một hệ thống nền tảng vững chắc về phân tích trên mạng sẽ tạo ra được các giải pháp phân tích chất lượng chính xác nhất đối với những vấn đề mà trước đây vẫn được coi là vô hình và không thể định lượng được, đó là đánh giá phân tích mức độ tích hợp và lưu lượng giao dịch trên mạng. Tuy nhiên, việc tìm tòi và xây dựng hệ thống nền tảng chỉ là bước đầu tiên. Duy trì quá trình đó thông qua việc quản lý định lượng theo mô hình đào tạo, uỷ quyền và chuyển giao mới là điều chủ chốt để tăng hiệu quả đánh giá. Khả năng đánh giá, đo lường điện tử hay còn gọi là emetrics là một điều cực kỳ quan trọng trong sự thành công của thương mại điện tử và nó quyết định sự thành bại của tất cả các công ty dotcom. Theo VnCompanies